Đại tộc
LỜI NÓI ĐẦU
ĐOÀN THƯỢNG XUÂN (1918-1996)
Là người được Họ giao cho trách nhiệm chép và bổ sung Gia phả của Chi Họ Đoàn ta,chúng tôi xin được phép trình bày mấy ý kiến và xin được ghi vào phần đầu Gia phả Họ như sau:
CÁCH GHI CHÉP VÀ TRÌNH BÀY QUYỂN GIA PHẢ TIẾNG VIỆT
Chắc chắn Gia phả Chi Họ Đoàn ta đã được viết và bổ sung qua nhiều thế hệ.Nhưng các bản cũ không còn nữa,hiện nay chỉ còn lại một bản do Ông Đoàn Danh Trì chép lại và viết thêm vào khoảng năm 1943,đến năm 1951,ông Đoàn Thức đã dịch lại bằng quốc ngữ,bản dịch của ông Thức cũng bị thất lạc qua thời gian cải cách ruộng đất.
Bản Gia phả do ông Trì viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.Được Họ giao trách nhiệm,chúng tôi đã hoàn thành việc dịch và phiên âm ra chữ quốc ngữ.Việc dịch và phiên âm có khó khăn,vì bản Gia phả bằng giấy bản lâu ngày bị rách nát,có chữ bị mất,nhiều chữ mờ khó đọc,vì vậy tên người,chức vụ,bút hiệu,các địa danh… chúng tôi chép cả bằng chữ Hán và chữ Nôm,để tiện đính chính khi có sai sót.Theo cách viết gia phả trước đây,thì việc chi chép không được đầy đủ lắm.Tên các vị Tổ đời thứ nhất và đời thứ hai không có,hầu hết các thế hệ,ngày tháng năm sinh không ghi được,ngày chết chỉ ghi ngày tháng Âm lịch(mục đích để nhớ làm giổ) chứ không ghi năm nào;có người chỉ chép tên ông mà không chép tên bà.Nhất là sự nghiệp,công đức,bối cảnh xã hội các tiên tổ,tiên tỷ ít được nêu rõ trong Gia phả.Dòng Họ ta,từ ông Tổ đầu tiên cho đến bây giờ đã được 17 đời.Thế hệ thứ 13,các tiên tổ,tiên tỷ hầu hết đã qua đời.Thế hệ thứ 14,còn nhiều người thượng tại.Cho nên chúng tôi chia Gia phả ra làm hai quyển:quyển đầu chép từ đời đầu đến đời thứ 13,quyển thứ hai chép từ đời thứ 14 về sau.Quyển 1 chính là dịch lại bản Gia phả cũ mà ông Đoàn danh Trì đã chép lại.Nội dung quyển một chúng tôi lại chia ra hai phần:Phần 1 chép từ đời thứ nhất đến đời thứ 5.Phần này theo Gia phả cũ nói là chép theo Gia phả chi Họ Đoàn ở Vân chàng,phần 2 của quyển đầu chép từ đời thứ 6 đến đời thứ 13.
Quyển thứ hai chép từ đời thứ 14 về sau.Có thể chia thành hai tập: quyển hai của Chi Giáp và quyển hai của Chi Ất.
Trên cơ sở chép lại Gia phả ra hai quyển như trên,chúng tôi làm hai bản Gia đồ để các đời nối tiếp nhau:
Một bản phả đồ từ đời thứ nhất đến đời thứ 6 là đời Ông Đoàn Chân Tính từ xã Vân chàng sang xã Quang chiêm sinh cơ lập nghiệp,đẻ ra chi Họ Đoàn ở xã Đức thịnh ngày nay(đính sau phần 1 của quyển đầu).
Một bản phả đồ từ đời thứ 6 đến đời thứ 14(đính sau phần hai của quyển đầu).
Nhìn vào hai bản phả đồ này,con cháu biết được nguồn gốc dòng Họ,biết được anh,em và biết được ai là tộc trưởng,Chi trưởng,nhánh trưởng.Nếu có điều kiện nên phóng to ra treo ở nhà thờ họ lớn và các nhà thờ họ nhỏ.
NGUỒN GỐC HỌ ĐOÀN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHI HỌ ĐOÀN TA QUA CÁC THẾ HỆ
Trên đất nước Việt nam,từ Bắc vào Nam,nhiều nơi có các chi Họ Đoàn cư trú.Và ngay trong tỉnh ta,trong huyện ta cũng có nhiều chi Họ Đoàn.
Nguồn gốc chung xa xưa nhất của Họ Đoàn là từ đâu,khó có thể biết được.Các gia phả của các chi họ nơi nào nhiều lắm cũng chỉ chép được vài mươi thế hệ,từ khoảng 4 đến 5 trăm năm lại nay,hơn nữa có nơi gia phả lại chép không đầy đủ có nơi gia phả tổ tiên bị thất lạc.Việc tìm hiểu để biết rõ gốc tích tổ tiên và mối quan hệ dòng họ giữa các chi họ đang là vấn đề qua tâm của con cháu trong các chi họ.
Chi họ Đoàn ta ở xã Đức thịnh,theo gia phả chép lại,nguồn gốc là từ xã Văn chàng thuộc huyện Can lộc.Tiếc rằng vị Tổ thứ nhất và thứ hai gia phả không ghi lại được tên ông,tên bà,con cái và lai lịch từ đâu đến.Đến vị tổ thứ ba là ông Đoàn danh Quản,theo gia phả là con thứ 3 của vị tổ thứ đời thứ hai sinh sống ở Vân chàng,vợ họ Hồ,mộ ông bà táng ở xã Vân chàng.Cho đến đời ông tổ thứ năm là ông Đoàn Di Phúc sau khi sinh được hai người con trai là ông Đoàn Chân Tính và ông Đoàn danh Toán thì ông bà di cư sang huyện khác và sinh thêm hai trai và 4 gái nữa.Gia phả không chép rõ vì lẽ gì mà di cư và di cư sang huyện nào.
Ông Đoàn danh Toán là con thứ hai vẫn ở lại xã Vân chàng,còn ông Đoàn Chân Tính là con trưởng thì sang thôn Quang chiêm thuộc xã Quang chiêm,huyện La sơn,Phủ Đức thọ,cách Vân chàng một con sông nhỏ(sông Đò Trai).Xã Quang chiêm lúc bấy giờ cho đến một thời gian dài sau này gồm các thôn Quang chiêm,Gia thịnh,Đông cần.Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gộp thêm xã Thái Yên và lấy tên là xã Đồng Quang,ít lâu sau nhập với xã Thanh lạng,gọi là xã Đồng Thanh,sau Cải cách ruộng đất các xã lại chia nhỏ như hiện nay,xã Đức thịnh,huyện Đức thọ,tỉnh Nghệ tĩnh gồm ba thôn Quang chiêm,Gia thịnh và Đông cần cũ.
Lúc sang ở Quang chiêm Ông Đoàn Chân Tính làm nhà trên một nương mạ ở xứ Cữa Đông,sau con cháu đông đúc trở thành một xóm mới(gia phả gọi là Tân ấp).Ông làm nghề thợ rèn là nghề truyền thống của cha ông (Gia phả ghi là dã tượng cục).Ông Đoàn Chân Tính có 4 người con trai,hai người mất sớm,còn lại hai ông là Đoàn Trịnh Hằng-con trai thứ hai và Đoàn danh Huynh-con trai thứ ba.Con cháu ông Đoàn danh Huynh,theo gia phả thì lúc đó phiêu bạt đi đâu không rõ,còn ông Đoàn Trịnh Hằng (tổ đời thứ 7) cũng theo cha làm nghề thợ rèn.Gia phả chép rằng:Đời ông Đoàn Trịnh Hằng,có một ông Thầy Tàu xem địa lý thấy đất xứ Cồn Kênh hình con thú là miếng đất tốt,đời đời phát đinh,nên khuyên ông dời mộ tổ đến đó.Ông nghe lời thầy địa lý tìm cách đem mộ tổ ở xã Vân chàng về táng ở xứ Cồn Kênh.Thầy lại bảo làm nhà thờ Họ trên nền nhà ông đang ở,mà dời nhà vào đám đất khác thì đời đời sẽ phú quý,nên ông chuyển nhà sang chỗ khác.
Vài năm sau,thôn xóm chọn cử ông đi lính,vì ông biết làm nghề rèn nên ông được giao cho phụ trách lò rèn để rèn khí giới.Có người đem nộp sắt cho lò rèn,trong đó có khối sắt nặng 30 cân,đến lúc bỏ sắt vào nung mới biết khối đó là vàng,ông liền cất dấu đi,đợi khi mãn hạn quân sự mang về tạo lập sản nghiệp trở nên giàu có.Ông làm trùn trưởng lò rèn của huyện.Ông thọ 97 tuổi,là một trong những người sống lâu trong Họ ta.
Đến đời thứ 8(đời con ông Đoàn Trịnh Hằng) gia phả chép là từ đó chia ra ba chi:
- Chi Giáp,vị tổ là Ông Đoàn danh Trọng,
- Chi Ất,vị tổ là ông Đoàn danh Dự,
- Chi Bính vị tổ là ông Đoàn danh Liêu.
Ông Đoàn danh Trọng,vị tổ chi Giáp,chức tước là Thập lý hầu,làm xã trưởng kiêm khán thủ,giữ ngôi thứ chức sắc trong thôn xã,tính cương trực,gia tư khá giả,thọ 93 tuổi-sinh năm Tân sửu (1721),mất ngày 9 tháng 3 năm Nhâm thân (1812).
Ông Đoàn danh Dự,vị tổ của chi Ất,làm quan võ,chức tráng tiết tướng quân,hiệu lệnh tư tráng sỹ thiên hộ chức vân kỵ úy sau thăng chức Thiểm tổng tri,là người trung trực,có chí lớn,thọ 79 tuổi-sinh năm Quý mão (1723),mất ngày mồng 8 tháng 5 năm Tân dậu (1801).
Trong ba vị tổ của ba chi thì ông Đoàn danh Liêu không vó chức phận gì.
Trong ba chi,thì chi Giáp phát đinh nhiều hơn cả,nên lại chia ra hai phân chi nhỏ là phan chi Giáp nhất và phân chi Giáp nhị.
Vị tổ của phân chi Giáp nhất là ông Đoàn thế Hiển chức tước là Thập lý hầu-như chức tước của tiên khảo Đoàn danh Trọng.Ông Đoàn danh Dao là Cai hợp thí tướng sỹ lang thừa hoa diện trị sự.
Chi Ất cũng phát triển khá mạnh.Duy chỉ có chi Bính là chi ít người nhất,chỉ được ba đời,đến đời thứ 11 thì không có người nối dòng nữa.
Từ đời thứ 9 trở về sau,đến tám thế hệ nối nhau cho đến bây giờ là đời thứ 17,đinh số phát triển ngày càng nhiều,trừ một số người mất sớm và người vô tự còn nhiều người thì con cháu nối dòng đông đúc.
Theo phả đồ,Chi Họ Đoàn ta ở Đức thịnh hiện nay có 10 nhánh nhỏ,theo thứ tự trên dưới như sau:
Chi Giáp : chia ra làm hai phân chi.
Phân chi Giáp Nhất:
Nhánh 1 :Đoàn Trọng Tam (Anh Chắt Hùng) là nhánh trưởng,đồng thời là Tộc trưởng Họ lớn,trưởng Chi Giáp và trưởng Phân Chi Giáp nhất.
Nhánh 2 :Đoàn Ngoan (Bác Quế) là nhánh trưởng.Nhánh 1 và nhánh 2 từ Tổ phân chi Giáp Nhất là ông Đoàn Thế Hiển (Đời thứ 9)
Phân chi Giáp Nhị:
Nhánh 3:Đoàn Huệ (con Anh Chắt Bổn) là nhánh trưởng,đồng thời là Phân Chi trưởng Giáp Nhị.
Nhánh 4 :Đoàn Hường (Chắt Hường) là nhánh trưởng.
Nhánh 5 :Đoàn Sủng là nhánh trưởng.
Nhánh 3,4,5 từ Tổ Đoàn Dang Kiện (Đời thứ 10)trở xuống;Nhánh 4,5 từ Tổ Đoàn Danh Nanh (Đời thứ 11) và Tổ Đoàn Danh Nghi (Đời thứ 12) trở xuống.
Nhánh 6 :Đoàn Thái Tri là nhánh trưởng
Nhánh 7 :Đoàn Thông (con anh Chắt Lương) là nhánh trưởng.
Nhánh 6,7 từ Tổ Đoàn Danh Kính (Đời thứ 10) trở xuống.
Nhánh 3,4,5,6,7 từ Tổ Phân chi Giáp nhị là Đoàn Danh Dao (Đời thứ 9) trở xuống.
Chi Ất :
Nhánh 8 :Đoàn Phú Tứ là nhánh trưởng đồng thời là Chi trưởng Chi Ất.
Nhánh 9 :Đoàn Tiển là nhánh trưởng.
Nhánh 10 :Đoàn Trị là nhánh trưởng.
Nhánh 8,9,10 từ Tổ Chi Ất là Đoàn Danh Dự (Đời thứ 8) trở xuống,Nhánh 8,9 từ Tổ Đoàn Danh Dương (Đời thứ 11) và Đoàn Danh Trạc (Đời thứ 12) trở xuống.
Tát cả 10 nhánh theo thứ tự anh em từ 1 đến 10 cung chung một vị tổ là Đoàn Chân Tính (đời thứ 6) và tổ Đoàn Trịnh Hằng (đời thứ 7)
TỔ TIÊN CHI HỌ ĐOÀN TA VÀ CON CHÁU SINH SỐNG NHƯ THẾ NÀO?
Tính từ vị tổ thứ nhất đến nay đã hơn bốn thế kỷ,và từ khi Ông Đoàn Chân Tính sang ở Quang chiêm đã qua 300 năm.Đối chiếu với lịch sử,các vị tổ tiên của Họ ta sống dưới thời Vua Lê chúa Trịnh,vào những năm cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17.Thời Ông Đoàn Chân Tính sang Quang chiêm là vào khoảng cuối thế kỷ thứ 18.Thời kỳ này,trong nước Triều Nhà Lê thì suy yếu,Chúa Trịnh lạm quyền.Các phe phái phong kiến tranh chấp nhau,gây ra nhiều cuộc xung đột,nhiều cuộc chiến tranh kéo dài,mà tỉnh Nghệ tĩnh ta luôn luôn là bãi chiến trường,kéo dài đến mấy trăm năm,như cuộc xung đột Nam bắc Triều giữa Họ Mạc với họ Nguyễn,rồi giữa Mạc và Trịnh,cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn.Đến cuộc khởi nghĩa Tây sơn quét sạch các phe phái phong kiến,đánh bại các cuộc ngoại xâm của quân Xiêm,quân nhà Thanh,thống nhất đất nước,nhưng chưa được bao lâu Vua Quang Trung mất,Nhà Tây sơn suy yếu,Gia long lập được vương triều Nhà Nguyễn.Rồi Pháp đến xâm lược nước ta,trong thời kỳ Pháp thuộc kéo dài hơn nửa thế kỷ,bao nhiêu là cuộc đấu tranh chống Pháp của các Văn thân sỹ phu yêu nước và của nhân dân.Rồi phong trào Xô viết ở tỉnh ta,huyện ta năm 1930-1931.
Năm 1945,Cách mạng Tháng Tám,và sau cách mạng Tháng Tám,cuộc chiến chống Pháp (9 năm),rồi đến chiến tranh chống Mỹ (20 năm).Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám,của cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ,nước ta đã được độc lập thống nhất,đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.Tổ tiên,con cháu họ Đoàn ta cũng như nhân dân cả nước,đã trải qua một thời kỳ lịch sử thật sôi động.Chưa kể đến 5 đời ở Vân chàng,thì đã có 12 thế hệ chi Họ Đoàn ta định cư trên mãnh đất mà ông Đoàn Chân Tính đến lập ấp mới.Hình dung phạm vi ấp mới đó là từ bến Đò trai đến con hói phía trên cách khoảng nửa cây số,ở phía nam con đường mà trước đây ta thường gọi là “đường quan”,nay là đường QL số 8 nối liền Thị trấn Đức thọ đến Thị xã Hồng lĩnh mới hình thành (trước kia là Bãi vọt hoang vu mà dân xã ta hay lên đó chặt củi),trên QL 1,cách thành phố Vinh 20Km. Mãnh đất này có những đồng ruộng tốt,màu mỡ,nhưng đường đi lối lại thì bùn lầy,vất vả,hàng năm đến mùa mưa lụt nước ngập trắng xóa cả vùng.
Ở đây,trong những thập kỷ gần đây cũng là nơi có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ,như là cuộc họp các đại biểu Đảng Tân việt trong cả nước về đây bàn thành lập Đông dương cộng sản Liên đoàn (Đảng tiền thân của Đảng Cộng sản Việt nam) diễn ra trên một chiếc thuyền ở trên sông Đò trai năm 1930.Việc hai đảng viên Cộng sản bắn chết một tên lính gác bến Đò Trai khi hắn đòi khám xét họ trên đường đi làm công tác.Sự việc này chính ông Đoàn Củng,người họ Đoàn ta,lúc đó làm thợ may ở Đò Trai là người đã chứng kiến (sau đó ông Đoàn Củng,tức là ông Cu Lục bị bắt và bị đày đi Ban mê thuột),và từ sự kiện này có một giai thoại khá nực cười về chuyện một tên bang tá cũng người trong xã ta tự đốt nón mình bằng dui nung đỏ để lấy cớ báo công với quan trên là hắn bị cộng sản bắn.Xã Quang chiêm là nơi phong trào 30-31 khá sôi nổi,nhân dân đứng dậy đấu tranh lập chính quyền cách mạng,lý trưởng bị lấy mất triện nhưng cũng là nơi xảy ra đàn áp,bắt bớ khi phong trào sụt xuống, lính Tây,lính Nam triều về đóng đồn ở thôn Thái yên,chiếm nhà trường của xã uy hiếp nhân dân trong vùng vô cùng khổ cực.Trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ,Đò trai là nơi tập trung bom đạn của máy bay địch,nhất là chiến tranh chống Mỹ,hàng trăm tấn bom đạn đã dội xuống hòng phá cấu cắt đường giao thông,nhưng đơn vị bộ đội giữ cầu đã bắn rơi và bắn bị thương nhiều máy bay địch.Trong bối cảnh lịch sử đó,tổ tiên,ông cha ta ngày trước cũng như con cháu họ Đoàn ngày nay đã làm ăn và hoạt động chính trị,xã hội ra sao?
Nghiên cứu gia phả,tuy không biết được nhiều,nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng vào những thời kỳ các đời trước,các tổ tiên,ông cha đã chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và giặc giả loạn lạc,và đã sinh sống bằng lao động sản xuất của mình,làm nghề nông là chủ yếu,có làm các ngành nghề khác,nhiều người làm thợ rèn là nghề của những vị tiên tổ đến những đời gần đây con cháu vẫn làm.Cũng có những người được học hành,thi cử đậu đạt,ra làm việc cho, các triều đại,hay đi dạy học.Như đời thứ mười có ông Đoàn danh Lâm đậu Hiệu sinh (Tú tài) dạy học;đời thứ 11 có ông Đoàn Danh Dương đậu Cử nhân làm Án sát (Chi Ất gọi là Cố Án);đời thứ 13 có ông Đoàn Danh Túc đậu Tam trường,mở lớp học tại nhà (thường gọi là Cụ Đầu phủ);đời thứ 14 có ông Đoàn Danh Trì dậu Tú tài và ông Đoàn Thức tốt nghiệp Quốc tử giám Huế-Nam triều.Về tư văn nho học thì không có mấy,nhưng về võ quan thì khá nhiều,điều này cũng dễ hiểu,vì dưới chế độ vua chúa,mọi người trai tráng đều phải vào lính,nhiều người trong họ ta nhập ngũ,có người thất trận bị chết,nhưng cũng có người có chí khí,có tài thao lược nên được phong những chức vụ cao,như:
Đời thứ 8 có ông Đoàn Danh Dự-vị Tổ Chi Ất-là tráng tiết tướng quân hiệu lệnh tráng sỹ thiên hộ chức vân kỵ úy Thiêm tổng tri (Tướng chỉ huy một ngàn quân).
Đời thứ 9 có các ông Đoàn danh Dao-vị tổ phân chi Giáp nhị-là Cai hợp thí tướng sỹ lang thừa hoa điệu tri sựông Đoàn Mai Tài (chi Ất) là thị vệ thiên hung đội thiên hộ chức;ông Đoàn Danh Nông (chi Bính) là Cai hợp;ông Đoàn danh Hợp (chi Bính) là Cai hợp.
Đời thứ 10,có các ông Đoàn Danh Tiến (phân chi Giáp nhất) là Ưu binh thắng đội trụông Đoàn Danh Điều (phân chi Giáp nhất) là Cai hợp thí tướng sỹ lang thừa hoa điện tri sựông Đoàn Danh Kiệm (chi giáp nhị) là Ưu binh khuông đạo đại ninh vệ ninh tam hiệu;ông Đoàn Danh Kính (phân chi Giáp nhị) là Ưu binh thành vệ nhất đội ngụ trưởng.
Đời thứ 11 có các ông Đoàn Danh Tuy (phân chi Giáp nhất) là Cai hợp thăng thụ tiền hoa điện tri sựông Đoàn Danh Lễ (phân chi Giáp nhị) là Ưu binh võ thành đội cửu đội cấp bằng đội trưởng;ông Đoàn Danh Nguyên (chi Ất) là Ưu binh võ thành vệ nhất đội.
Đời thứ 12 có các ông Đoàn Danh Chấn (phân chi Giáp nhị) là Ưu binh nghi võ vệ cửu đội ngụ trưởng;ông Đoàn Danh Nghi (phân chi Giáp nhi) là Ưu binh nghi võ vệ đội cửu đội thư lại.
Đời thứ 13 có ông Đoàn Danh Tuyên (phân chi Giáp nhị) là Ưu binh long võ dinh nghị võ đội cấp bằng đội trưởng.
Ngoài những người đi làm việc cho Nhà nước,đi lính,cũng rất nhiều người ở nhà vừa lao động sản xuất,vừa tham gia công việc trong thôn xã,như tham gia hội đồng lý dịch (làm xã trưởng,lý trưởng,cán biện nghĩa thương,khán thủ…) như :
Đời thứ 8 ông Đoàn Danh Trọng-vị tổ chi Giáp-tước được phong là Thập lý hầu,làm khán thủ cho xã.
Đời thứ 11 ông Đoàn Danh Châu (phân chi Giáp nhất) làm Lý trưởng;ông Đoàn Danh Nam (phân chi Giáp nhị) làm cán biện nghĩa thương;ông Đoàn Danh Ca (phân chi Giáp nhị) là Tri hương chức.
Đời thứ 13 ông Đoàn Danh Đong (phân chi Giáp nhị) làm xã trưởng.
Hoặc rất nhiều người tuổi cao trong thôn xóm thì được cử vào Hội đồng kỳ mục,làm thủ chỉ,hoặc tham gia vào Hội hương trang kỳ lão.
Một điều mà ai cũng thấy rõ là dù làm cho nhà nước phong kiến,thực dân,hoặc đi lính cho các triều đại,hoặc tham gia việc gì ở thôn xã,Tổ tiên,ông cha trong khuôn khổ phép tắc của thời đại đó mà ra làm,không có ai có hành động gì hại nước hại dân,mà gia phả còn ghi chép những gương dức tính thanh liêm,không tham lam tiền tài của cải,điển hình như đời thứ 10 có ông Đoàn Danh Khoát (chi Ất),đi lính được điều đi dẹp phỉ,nhưng khi đánh giặc xong,trong lúc đồng đội lo lấy của cải này kia thì ông chỉ lấy mấy quyển sách về cho con học.
Đời thứ 11 ,ông Đoàn Danh Dương,làm quan ở nhiều huyện,rồi thăng lên đến án sát,tổng đốc quan phòng,rất thanh liêm,chỉ biết làm lợi cho dân,xử kiện có tình có lý,ở đâu nhân dân cũng ca ngợi,có nơi dân làm câu đối ca tụng ông đem treo ở công đường,khi ông đổi đi nơi khác có người đưa vàng đưa bạc đến để đền ơn nhưng ông đều từ chối.Đời thứ 14 có ông Đoàn Thức,tốt nghiệp Quốc tử giám,được bỏ dụng làm Thừa phái rồi làm Tri huyện,có công với nhân dân,có cảm tình che chở chiến sỹ cách mạng,đến cách mạng Tháng Tám bùng nổ,một tri huyện của chế độ cũ mà nhân dân lại bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời của huyện đó,thật là hiếm có.Trong thời kỳ Pháp thuộc,trong họ ta ai nấy đều lo làm ăn lương thiện,hợp pháp nhưng các phong trào chống Pháp như Văn thân,Cần vương đến phong trào Xô viết 30-31,trong họ ta đều có những hoạt động hưởng ứng,hoặc tham gia trực tiếp.Con cháu có nghe kể lại rằng:Đời ông Đoàn Danh Túc (đời thứ 13) đã có lúc tập trung nghĩa quân tại nhà thờ chi Ất để tập dượt,hoặc có những cuộc gặp gỡ giữa ông Đoàn Danh Túc và ông Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ Bác Hồ) tại nhà ông Túc để đàm đạo công việc cách mạng,hoặc có những quan hệ mật thiết giữa ông Đoàn Danh Túc,ông Đoàn Danh Đề với ông Lê Võ ở Lạc thiện,bàn bạc công việc chống Pháp.Ông Lê Võ là Cụ Ấm Võ có con gái là bà Lê thị Mai gả cho con ông Đề là Đoàn Thức,gia đình cụ Ấm Võ có năm anh em đều làm cách mạng chống Pháp.
Thời kỳ phong trào Xô viết 30-31,chưa nói đến việc quyên tiền ủng hộ Đàng được hầu hết các gia đình trong Họ ta hăng hái đóng góp,nhiều thanh niên trong Họ,từ con trai đến con gái đều tham gia phong trào,tuyên truyền cổ động,rải truyền đơn,mít tinh biểu tình,cướp chính quyền.Một số trong Họ hoạt động bị bắt,kết án tù đày,chết ở nhà lao,như ông Đoàn Diện (Nho Năm),ông Đoàn Củng (Cu Lục),ông Đoàn Diện lúc đó là huyện ủy viên.Trong và sau cách mạng Tháng Tám cho đến nay đông đảo con cháu họ Đoàn phát huy truyền thống tổ tiên,cha ông đoàn kết,giúp đỡ đùm bọc nhau,chăm lo lao động sản xuất,xây dựng hợp tác xã,chấp hành đầy đủ các chủ trương của Đảng và Chính phủ.Về kinh tế,cá biệt có nhà còn có khó khăn,nhưng nói chung với cách làm ăn mới,nhà nhà đều tấn tới,đa số có nhà ngói sân gạch,không lo chuyện đói kém như trước.Ruộng đất do Hợp tác xã quản lý tập thể,không có ruộng riêng như xưa.Về Văn hóa,con cháu đều được học hành,hầu như con em Họ ta đều phổ cập cấp 2,cấp 3.Nhiều đại học,có trên đại học,phó tiến sỹ,có giáo viên cấp 3,giáo viên đại học.Về chính trị và xã hội,con cháu là Đảng viên,thoát ly đi làm việc cho Nhà nước khá nhiều ở khắp trong Nam ngoài Bắc.Có nhiều người là Giám đốc các ngành,sở,các nhà máy,cơ quan xí nghiệp.Nhiều con cháu tham gia bộ đội qua từng thời kỳ chống Pháp,chống Mỹ và hiện nay có người đã hy sinh được phong tặng là Liệt sỹ,có nhiều người có thành tích chiến đấu,một số có quân hàm tá,úy.Nói về các bà,các bà vợ là những con dâu của họ ta qua các thế hệ,và những người con gái sinh ra từ trước tới nay,thì nữ giới của Họ ta chiếm đến quá nửa nhân số trong Họ.Trong gia phả không chép rõ nhưng cũng biết rằng các đời trước các bà ít tham gia công tác xã hội như các ông,chỉ làm lao động sản xuất chăn nuôi,làm việc nội trợ trong gia đình,chăm lo nuôi dạy con cái.
Có người là gương sáng về phụng dưỡng cha mẹ chồng,chăm sóc dạy dỗ con mà gia phả có nêu như Bà Phạm Thị Lộc,con gái ông Pham Diên Tính ở trong xã vợ ông Đoàn Danh Thát (Khoát)đời thứ 10,có bia ghi công là thờ phung cha mẹ chồng hết sức tôn kính,đối đãi với con cháu,họ hàng hết sức hòa nhã,đối với chồng chung sống 30 năm hòa thuận;chồng mất sớm,bà tằn tiện nuôi nấng con cái trưởng thành,nhất là công nuôi ông Đoàn Danh Dương ăn học thành đạt,đậu Cử nhân,làm đến chức Án sát,Tổng đốc quan phòng;như bà Lê thị Cường,hiệu là Từ Thuận Cung nhân,con ông Lê Bình ở trong thôn là vợ ông Đoàn Danh Dương (đời thứ 11),hầu hạ bà Thái tử rất chu đáo,vừa làm ruộng vừa làm nghề đệt vải,khi chồng đi làm quan,đi theo hầu hạ giúp đỡ chồng,rất liêm ở chỗ tiền của,rất vui ở chỗ bạn bè quen biết,được nhiều người khen ngợi đức tính của bà.Đến ngày nay,các con dâu,con gái của Họ ta đều được học hành như nam giới,có người là đại học,trên đại học,đi dạy,đi làm ở các công nông trường xí nghiệp,nhà máy,cơ quan,đi bộ đội,thanh niên xung phong,làm công nhân.Con gái họ ta những đời sau này,gả về nhiều nơi,có người lây chồng ở những nơi xa,trong Nam,ngoài Bắc,không như các bà ngày trước lấy chồng trong thôn,trong xã,có xa lắm là các huyện lân cận.
Được vinh dự chép lại gia phả,qua đó biết được nguồn gốc của sự phát triển của chi Họ Đoàn ta,chúng tôi thấy rằng ngày nay con cháu họ Đoàn đông đúc,thành đạt,tiến bộ là nhờ phúc ấm của tổ tiên ông bà để lại,nhờ công cù lao dưỡng dục của cha mẹ.
“Uống nước nhớ nguồn”,chúng ta luôn luôn nhớ công đức to lớn của tổ tiên,ông bà,cha mẹ chúng ta.Các thế hệ họ Đoàn trước kia cũng như ngày nay,qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau,đã sống và đoàn kết trong cộng đồng dân tộc,làng xóm,dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ được tư cách đạo lý làm người,làm tròn trách nhiệm của người dân.Ngày nay dưới chế độ mới,chế độ Xã hội chủ nghĩa,được sống hạnh phúc tự do yên vui,đó là nhờ ơn cách mạng,nhờ ơn Đảng.Tin chắc rằng phát huy truyền thống của dòng họ,con cháu chúng ta sẽ phấn đấu để càng ngày càng tiến bộ.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM năm thứ 12
Ngày tháng năm 1989.
Người chép lại gia phả: ĐOÀN THƯỢNG XUÂN.
TỔ TIÊN HỌ ĐOÀN
ĐỜI THỨ NHẤT
1-ĐOÀN NHẤT LANG
Tiên tổ kinh triệu quận Đoàn nhất lang
ĐỜI THỨ HAI
2-ĐOÀN NHẤT LANG
Tiên tổ kinh triệu quận Đoàn nhất lang
ĐỜI THỨ BA
3-ĐOÀN DANH QUẢN
Tiên tổ tiền triều cai Huyện tự Danh Quản,ông tên húy là Tâm,là con thứ ba của Tổ đời thứ 2
Vợ Hồ thị Hàng Nhị.
Ông bà sinh được 4 trai:
đầu là Đoàn vô Niệm,
thứ hai Đoàn Danh Chi(đi đâu không rõ),
thứ ba Đoàn Danh Nhiều,
thứ tư Đoàn Danh Thúc(đi lính chết trân)
và một con gái là Đoàn thị Nhược
Ông mất ngày 17 thang 5 Âm lịch.
Mộ ông bà tại xã Vân chàng,xứ Dăm Hà co.
ĐỜI THỨ TƯ
4-1-ĐOÀN VÔ NIỆM
Đoàn Nhất lang tự Vô Niệm phủ quân
Ông hiệu là ông Đại,là con trưởng ông Đoàn Danh Quản
Vợ Họ Phạm (trước là họ Mạc).
Ông bà sinh được ba trai:
Đoàn Danh Đại sinh ra Đoàn Danh Thảo di chuyển đi đâu không rõ
Đoàn Danh Thừa (vô hậu)
Đoàn Danh Thê (vô hậu)
4-2-ĐOÀN DANH NHIỀU
Tiên tổ kinh triệu quận tự Danh Nhiều tam lang
Vợ:Nguyễn thị Hàng nhị tự là Tài Nhụ nhân
Thế hiệu :Ông Hy,bà Hy
Ông là con trai thứ ba của ông Đoàn Danh Quản
Ông bà sinh được 4 trai:
Đầu là Đoàn Di Phúc
Thứ hai là Đoàn Đức Nhuận
Thứ ba là Đoàn Danh D (mất sơm)
Thứ tư là Đoàn danh Hạ
và 1 gái: Đoàn thị Thuy Hoa ngọc nương (giỗ ngày 15 tháng 1-Rất linh thiêng)
Ông mất ngày 10 tháng 8 Am lịch,mộ tại xứ Đòng sau,xã Vân chàng(Theo gia phả Vân chàng thì mộ ông trước ở xứ Eo bồi)
Bà mất ngày mồng 1 tháng 12 Âm lịch,mộ tại xứ Cồn Kênh.
ĐỜI THỨ NĂM
5-1-ĐOÀN DI PHÚC
Tiên tổ tiền triệu quận Đoàn Nhất lang tự Di phúc phủ quân
Vợ :Phan thị Cân
Thế hiệu Ông Minh,Bà Minh.
Ông là con đầu của Ông Hy (Đoàn Danh Nhiều).
Theo gia phả Vân chàng,ông bà sinh được hai người con trai là Đoàn chân Tính và Đoàn Danh Toán,sau di cư sang huyện khác và sinh thêm hai người con trai nữa là Đoàn Danh Ong và Đoàn Danh Anh và 4 gái là Đoàn thị Điệp,Đoàn thị Quy,Đoàn thị Thắm,Đoàn thị Tốt (đều mất sớm)
5-2-ĐOÀN ĐỨC NHUẬN
Đoàn nhị lang tự Đức Nhuận
Ông tên húy là Phương,là con trai thứ hai của ông Hy(Đoàn Danh Nhiều)
Ông bà sinh được một người con trai là Đoàn Hải.
5-3-ĐOÀN DANH HẠ
Đoàn tứ lang tự Danh Hạ
Vợ Quách thị Quý
Ông là con út của ông Hy (Đoàn Danh Nhiều)
Ông bà sinh được ba người con trai:
Trưởng là Núi,thứ hai là Đấu,thứ ba là Lập (Đấu và Lập đều mất sớm) và 2 gái là Thị Hy và Thị Cá;đều là chi phái tiên tổ tại xã Vân chàng,huyện Can lộc.
Nay còn :Đoàn Danh Thụy
Đoàn Danh Ý
Đoàn Danh Mu
Đoàn Danh Thục
Đoàn Huệ,đều thuộc chi tổ Danh Hạ
Đời Lê có Hương cống Đoàn Đảng là ông của Tú tài Đoàn Nhượng
ĐỜI THỨ SÁU
6-1-ĐOÀN CHÂN TÍNH
Triều thiên sơ tổ tiền dã tượng cục Đoàn Nhất lang tự Chân Tính thụy cương trực phủ quân.
Vợ Trần thị Nhụ nhân húy Rằng
Thế hiệu Ông Niết,bà Niết
Ông là con trưởng của ông Minh (Đoàn Di Phúc)
Theo gia phả Vân chàng,ông trước quán tại xã Vân chàng,huyện Can lộc,đến thôn Quang chiêm thuộc xã Quang chiêm,huyện La sơn làm nhà trên nương mạ xứ Cữa đông,sau đó con cháu đông đúc thành ra một xóm mới.
Ông nguyên làm nghề thợ rèn,phụ trách tổ lò rèn (dã tượng cục)
Ông bà sinh được bốn trai và hai gái:
Con trai trưởng là Đoàn Danh Lắm ,sinh được một gái là Thị Hội gả chồng về Gia thịnh.
Con trai thứ hai là Đoàn Trịnh Hằng
Con trai thứ ba là Đoàn danh Huynh
Con trai thứ tư là Đoàn Danh Dâu Đoàn Danh Dâu sinh được 4 con đều chết sớm cả,giổ ngày 17 thang 2.
Hai gái là Đoàn thị Dục lấy ông Bùi Đình (Bùi Hiến là cháu) và Đoàn thị Khán.
Ông mất ngày mồng 9 tháng 7 Âm lịch,mộ tại phía bắc dăm nghẹo Kỳ soi.
Bà mất ngày mồng 1 tháng 7 Âm lịch,mộ tại phía nam dăm Eo chí
Nay đều đã cải táng về Nghĩa trang Nhà Liêu.
ĐỜI THỨ BẢY
7-1-ĐOÀN DANH LẮM
Đoàn nhất lang tự Danh Lắm.
Là con đầu ông Niết
Sinh được một con gái là Thị Hội,gả cho người Gia thịnh,cúng ông làm ngoại tổ.
7-2-ĐOÀN TRỊNH HẰNG
Triệu thiên thứ tổ tiền hương trung kỳ lão kiêm bản huyện trùm trưởng tự Trịnh Hằng thụy chân nghị phủ quân.
Vợ Nguyễn thị Hàng nhất hiệu từ nhụ nhân
Ông là con thứ hai của ông Niết (Đoàn chân Tính).Kế thừa cha,ở nhà xứ Cữa Đông.Gia nghiệp thanh khiết.Nghe lời thầy địa lý Tàu,dời mộ Tổ ở xã Vân chàng về táng ở xứ Cồn kênh.Thầy nói đất ở đó có hình con thú,táng ở đó đời đời phát đinh.Sau đó nghe lời thầy chuyển nhà ở sang chỗ khác,làm nhà thờ trên nền nhà cũ,thầy lại nói ở chỗ đất mới sẽ đời đời phú quý.Sang ở chỗ mới được vài năm,thôn chọn ông đi lính.Lúc bấy giờ có loạn ở thượng đạo,ông tòng quân lên đó.Quan quân chọn thợ rèn để rèn khí giới,ông được giao làm việc đó.Có một người mang một khối sắt nặng 30 cân đến để rèn đao,ông đang mệt không thể làm việc được.Người đó về,một chốc sau ông đỡ mệt bèn bỏ khối sắt vào lò,mới biết rằng trong khối sắt đó có vàng liền dấu đi.Sau việc binh đã xong được về,ông mang về tạo lập cơ nghiệp,được hơn 60 mẫu ruộng đất.Gia tư trở nên giàu có.Ông làm trùm trưởng lò rèn trong huyện.
Ông bà sinh được ba người con trai:
Trưởng là Đoàn Danh Trọng
Thứ hai là Đoàn Danh Dự
Thứ ba là Đoàn danh Liêu
và 6 người con gái:
Đoàn thị Tiêm,mất ngày 8 tháng 1
Đoàn thị Nhị nương hoại thai hai tháng sau đẻ
Đoàn thị Đỏ mất ngày 15 tháng 7,rất linh thiêng
Đoàn thị Giang gả cho người họ Bùi (Bùi Viễn)
Đoàn thị Thông gả cho người họ Nguyễn (Nguyễn Khâm)
Ông mất ngày 13 tháng 3,thọ 97 tuổi.Mộ tại dăm Mũi rồng giáp ruộng
Bà mất ngày 26 tháng 10,thọ 84 tuổi.Mộ tại dăm Bàn than.
Nay đều đã cải táng về Nghĩa trang Nhà Liêu.
7-3-ĐOÀN DANH HUYNH
Tiền dã tượng cục tự Danh huynh tam lang
Vợ :chính thất ……
Ông là con thứ ba của ông Niết
Ông bà sinh ra Danh Rọng và Thị Phạm.Danh Rọng phiêu cư sang ở đâu không rõ.
Ông mất ngày 17 tháng 4.Mộ tại xứ Bàn than
Bà mất ngày mồng 9 yháng 10.Mộ tại xứ Cữa Đông.
Nay đều đã cải táng về Nghĩa trang Nhà Liêu.
7-4-ĐOÀN DANH DÂU
Đoàn tứ lang tự Danh Dâu
Ông là con thứ tư của ông Niết
Ông mất sớm,giổ ngày17 tháng 2
Phụ thêm:Ngoại tổ khảo là Nguyễn Chắt.
Vợ :Trần thị Quán,là thái sơn thái thủy của ông Đoàn Chân Tính.
Ông Chắt mộ tại dăm con Bướm.
Bà Quán mộ tại dăm Đóa Kỳ soi phia bắc giáp ruộng
Nay đều đã cải táng về Nghĩa trang Nhà Liêu.
ĐỜI THỨ TÁM
- CHI GIÁP
- CHI ẤT
- CHI BÍNH
CHI GIÁP
8-1-ĐOÀN DANH TRỌNG
Giáp phái phân chi tổ tiền thập lý hầu kiêm khán thủ hương trung kỳ lão tự Danh Trọng thụy cương nghị phủ quân.
Thế hiệu Can lịnh
Vợ:Chính thất :Phạm thị Nhã,
Á thất Trần thị Vinh
Ông tên húy là Chưng,sinh năm Đinh sửu,là con đầu của ông Trùm huyện là ông Đoàn Trịnh Hằng.Tính tình cương trực,lúc nhỏ đi học,lớn lên làm xã trưởng lại kiêm cả khán thủ.
Bà Phạm thị Nhã sing được 3 người con trai:
Đầu là Đoàn Thế Hiển,thứ hai là Đoàn Danh Dao,thứ ba là Đoàn Danh Sắc (mất sớm,giổ ngày 8-2);và được 4 gái:Đoàn Thị Tĩnh mất sớm,Đoàn Thị Tị Hương lấy chồng là Lê Huống,Đoàn Thị Thọ lấy chồng họ Nguyễn,Đoàn Thị Ngan cũng lấy chông họ Nguyễn sinh Nguyễn Tân,Nguyễn Bằng và Nguyễn Năng.
Bà Trần thị Vinh,người xã Yên phúc,sinh được 1 trai là Đoàn Danh Xan mất sớm,giổ ngày 8-4 và 1 gái là Đoàn Thị Lăng lấy ông Lê Hy,sinh Lê Giai,Lê Tứ.
Ông nhà giàu có,ruộng đất 45 mẫu.
Ông thọ 93 tuổi,giổ ngày 9-3 Âm lịch.Mộ tại ruộng Kỳ soi.
Bà chính thất giổ ngày 16-2 Âm lịch.Mộ tại đất Kỳ soi phía nam.
Bà á thất giổ ngày 28-5 Âm lịch.Mộ tại Dăm cự.
Nay đều đã cải táng về Nghĩa trang Nhà Liêu.
CHI ẤT
8-2-ĐOÀN DANH DỰ
Ất phái phân chi tổ tiền kiệt trang tướng quân hiệu lệnh tư tráng sỹ thiên hộ chức vân kỵ úy thăng thụ Thiêm tổng tri tự Danh Dự thụy trang trực phủ quân.
Vợ:Chính thất Phan thị hàng nhất (là con gái cố Cọng).
Trắc thất là Nguyễn thị hàng tam (tức Nguyễn thị Thái,người xã Lãng cao,huyện Đông thành)
Ông tên húy là Triển,là con thứ hai của ông Đoàn Trịnh Hằng,em ông Đoàn Danh Trọng chi Giáp,vốn là người trung trực,từ lúc nhỏ đã có chí lớn.Lớn lên tòng binh,có công được thăng thụ Bách hộ chức,cùng ông Tổng quản lãnh binh Hải quận công ở đạo Nghệ an đi đánh giắc lập chiến công,được thăng Phó thiên hộ chức,làm Tráng tiết tướng quân thiết kỵ úy.Năm Cảnh hưng thứ 26,cùng ông Thống lãnh vực quận công đánh giặc ở đạo Sơn tây,đã từng bị hàng chục mũi kiếm đâm vào người.Lần lượt lập công tích nên lại được thang Thiên hộ chức,làm Tráng tiết tướng quân hiệu lệnh tư tráng sỹ thiên hộ chức vân kỵ úy,rồi lại được phong Thiêm tổng tri.
Bà chính thất sinh được một trai là Đoàn Danh Liên và ba gái là Đoàn Thị Viện gả cho họ Bùi,sinh Bùi Chỉnh,Bùi Chỉnh sinh Thị Bài,Đoàn Thị Dục gả cho họ Nguyễn,Đoàn Thị Kiến gả cho họ Nguyễn (sinh Nguyễn Bà Tháp)
Bà trắc thất sinh 4 trai:Đoàn Danh Luân mất sớm,Đoàn Danh…(mất sớm,giổ 15-5),Đoàn Danh Triển ,Đoàn Danh Tường và 1 gái là Đoàn Thị Thành gả cho họ Nguyễn (Nguyễn Bá Thước) sinh Nguyễn Bá Trạch.
Ông ta giàu có,được 30 mẫu ruộng đất.
Ông sinh năm Quý mão,mất năm Tân dậu,ngày 8 tháng 5,thọ 79 tuổi.Mộ tại xứ Bàn than
Bà chính thất mất ngày 23-6,mộ tại Dăm cồn,Bàn than.
Bà Trắc thất mất ngày 23…Mộ tại Dăm Đóa Bàn than.
CHI BÍNH
8-3-ĐOÀN DANH LIÊU
Bính phái phân chi tổ Đoàn tam lang tự Danh Liêu.
Chính thất Đinh thị Khủng.
Ông tên húy là Viết,là con thứ ba của ông Trùm huyên Đoàn Trịnh Hằng.
Ông bà sinh được 3 con trai:đầu là Đoàn Danh Nông ,thứ hai là Đoàn Danh Hoạt ,thứ ba là Đoàn Danh Toái (mất sớm) và hai gái là Đoàn Thị Thùy (mất sớm) và Đoàn Thị Ngụ Nương (tảo lạc)
ĐỜI THỨ CHÍN
- PHÂN CHI GIÁP NHẤT
- PHÂN CHI GIÁP NHỊ
- CHI ẤT
- CHI BÍNH
PHÂN CHI GIÁP NHẤT
9-1-ĐOÀN THẾ HIỂN
Tiền thập lý hầu Đoàn lệnh công tự Thế hiển thụy cương trực phủ quân.
Vợ : Bùi thị Phân.
Ông tên húy là Triệt,con đầu của ông Đoàn Danh Trọng
Ông bà sinh được 5 người con trai:đầu là Đoàn Danh Tiến ,thứ hai là Đoàn Danh Vọng ,thứ ba là Đoàn Danh Trí ,thứ tư là Đoàn Danh Điều ,thứ 5 là Đoàn Danh Thân (mất sơm,giổ ngày 12-9) và 6 người con gái là Đoàn Thị Đỏ (giổ ngày 20-9),Đoàn Thị Tình (giổ ngày 5-9),Đoàn Thị Hầu (giổ ngày 4-1),Đoàn Thị Hào (giổ ngày 9-3),Đoàn Thị Tính gả cho Đinh Diên Mỹ sinh ra Đinh Diên Bộ.
Ông mất ngày 3-11,thọ 55 tuổiMộ tại dăm Bàn than.
Bà mất ngày 25-1,mộ tại Cồn kênh.
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
PHÂN CHI GIÁP NHỊ
9-2-ĐOÀN DANH DAO
Tiền cai hợp thí tướng sỹ lang thừa điện tri sự hương trung kỳ lão Đoàn lệnh công tự Danh Dao thụy cương chính trực phủ quân.
Vợ : Nguyễn thị Sưu.
Ông tên húy là Hòe,là con thứ của ông Đoàn Danh Trọng
Ông bà sinh được 5 người con trai:Đầu là Đoàn Danh Kiêm ,thứ hai là Đoàn Danh Hàn (mất sơm giổ 30-2),thứ ba là Đoàn Danh Ký (mất sớm,giổ 21-7),thứ tư là Đoàn Danh Kính ,thứ 5 là Đoàn Danh Dinh và 6 con gái là Đoàn Thị Nhật gả cho Lê Vinh,sinh Lê Thân,Đoàn Thị Giáo gả cho Bùi Đình Toan sinh ra Bùi Đình Niệm,Đoàn Thị Tôn gả cho Trần Hữu Trực tái giá với Bùi Chỉnh,Đoàn Thị Chính gả cho Bùi Huy sinh ra Bùi Đôi,Bùi Khôn,Đoàn Thị Thiệp gả cho Nguyễn bá Tuyên sinh ra Nguyễn Bá Trần và Đoàn Thị đỏ (tảo lac).
Ông thọ 77 tuổi,mất ngày 24-7,mộ tại Kỳ soi.
Bà thọ 83 tuổi,mất ngày 7-6,mộ tại Kỳ soi.
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
CHI ẤT
9-3-ĐOÀN DANH LIÊN
Tiền nhiêu nam Đoàn lệnh công tự Danh Liên thụy mẫn trực phủ quân.
Ông tên húy là Nhiếp.Ông là Con trai đầu ông Đoàn Danh Dự
Vợ :Chính thất Nguyễn thị hàng nhất,hiệu là Từ Thuận nhụ nhân,tự là Nguyễn thị Nhũ.
Á thất Lê thị Nhị nương,húy Lê thị Sở.
Bà Nguyễn thị Nhũ sinh được hai người con trai:đầu là Danh Ảnh (mất sớm),thứ là Đoàn Danh Khoát và một gái là Đoàn Thị Khoáng gả cho người họ Đào sinh Đào Xuân Viêm,Viêm sinh Xuân Lạc.Bà không hợp ý ông nên tái giá lấy người khác.Ông lại lấy bà Lê thị Sở,Bà Sở sinh được hai trai nữa là Đoàn Danh Đình và Đoàn Danh Trường nhưng đều mất sớm.
Ông mất ngày 29-7,táng tại Bàn than.
Bà á thất mất ngày 17-6,mộ tại Bàn than
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
9-4-ĐOÀN MAI TÀI – CHI ẤT
Tiền thị vệ thiên hung đội thiên hộ chức Đoàn quý công tự Mai Tài phủ quân.
Ông húy là Triển,là con thứ tư của ông Thiêm tổng tri Đoàn Danh Dự
Ông tòng quân hồi triều Lê,có công được cấp ban trị sự.
Bà là Nguyễn thị Phương.
Ông bà sinh được một trai là Đoàn Danh Đổng và một gái là Đoàn Thị Đỉnh.
Ông mất ngày 21 tháng giêng.
9-5-ĐOÀN DANH TỀ – CHI ẤT
Tiền nhiêu nam Đoàn lệnh công tự Danh Tề thụy cương nghị phủ quân.
Vợ : Trần thị Trí
Ông tên Húy là Tường,là con út của ông Thiêm tổng tri Đoàn Danh Dự
Ông bà sinh được 3 trai là Đoàn Danh Dâu (mất sớm),thứ 2 là Đoàn Danh Đỏ (mất sơm) thứ 3 là Đoàn Danh Tập và một gái là Đoàn Thị Trả gả cho Nguyễn Bằng sinh Nguyễn Trạch.
CHI BÍNH
9-6-ĐOÀN DANH NÔNG
Tiền cai hợp Đoàn nhất lang tự Danh Nông.
Vợ : Trần thị Tường
Ông tên húy là Phượng,là con đầu ông Đoàn Danh Liêu
Ông bà sinh được một trai là Đoàn Danh Lâm ,đỗ Hiệu sinh và một gái là Đoàn Thị Ngàn gả chồng họ Nguyễn
Ông mất ngày 19-2,bà mất ngày 26-10
9-6-ĐOÀN DANH HOẠT – CHI BÍNH
Tiền cai hợp Đoàn nhị lang tự Danh Hoạt
Ông là con thứ hai của ông Đoàn Danh Liêu
Bà ….
Ông bà sinh được một gái là Đoàn Thị Định
ĐỜI THỨ MƯỜI
- PHÂN CHI GIÁP NHẤT
- PHÂN CHI GIÁP NHỊ
- CHI ẤT
- CHI BÍNH
PHÂN CHI GIÁP NHẤT
10-1-ĐOÀN DANH TIẾN
Tiền ưu binh thắng tru đội Đoàn lệnh công tự Danh tiến phủ quân
Vợ : Lê thị Tùng
Ông tên húy là Hồng,là con trai đầu của ông Đoàn Thế Hiển
Ông bà sinh được ba người con trai:đầu là Đoàn Danh Tuy ,thứ hai là Đoàn Danh… (mất sớm,giổ ngày 1-5),thứ ba là Đoàn Danh Phùng (mất sớm,giổ ngày 9-6),và 4 người con gái là Đoàn Thị Ninh (mất sơm),Đoàn Thị Hinh (mất sơm),Đoàn Thị Tịnh (mất sơm) và Đoàn Thị Vinh gả cho ông Lê Toàn.
Ông mất ngày 6-7,mộ tại dăm Cỏ ngựa.
Bà mất ngày 16-12
10-2-ĐOÀN DANH VỌNG
Tiền thí tướng sỹlang thừa hoa điện tri sự kiêm thập lý hầu hương tring kỳ lão Đoàn lệnh công tự Danh Vọng phủ quân.
Vợ : Nguyễn thị Ấp
Ông là con thứ cua ông Đoàn Thế Hiển
Ông bà sinh được một con trai là Đoàn Danh Châu làm lý trưởng
Ông mất ngày 23-7,mộ tại ruộng Mộc vại
Bà mất ngày23-3,mộ tại ruộng Mộc vại
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
Ông bà có ruông lưu lại cho con cháucúng giổ.
10-3-ĐOÀN TRÍ TÀI
Đoàn tam lang tự Trí Tài phủ quân
Ông tên húy là Hàm,là con trai thứ 3 của ông Đoàn Thế Hiển
Đi lính chết ngày 13-6,mộ tại Bàn than quản điền (ruộng công xứ bàn than)
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
10-4-ĐOÀN DANH ĐIỀU
Tiền cai hợp thí tướng sỹ lang thừa diện hoa tri sự tái ưu binh tiền khuông đạo thi lân vệ kiêm thập lý hầu ân từ lão nhiêu Đoàn lệnh công tự Danh Điều thụy cương nghị phủ quân.
Vợ : Bùi thị Nhụ nhân (chính thất)
Lê thị Đặng (thứ thất)
Ông là con thứ tư của ông Đoàn Thế Hiển
Bà chính thất sinh được một người con trai là Đoàn Danh Nghị làm lý trưởng
Bà Lê thị Đặng sinh được 4 người con trai là Đoàn Danh Dao (đi lính chết),Danh kỳ,Đoàn Danh Khanh (mất sơm) vàĐoàn Danh Canh
Ông mất ngày 10-1,mộ tại Sau nha
Bà chính thất mất ngày 10-1,mộ tai Sau nha
Bà thứ thất mất ngày 10-12 ,mộ tại dăm Mộc vại.
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
PHÂN CHI GIÁP NHỊ
10-5-ĐOÀN DANH KIỆM
Tiên ưu binh khuông đạo đại ninh vệ ninh tam hiệu tự Danh Kiệm thụy chất trực phủ quân
Vợ : Nguyễn thị Lại ở xã Nội diên
Thế hiệu Can Miện
Ông húy là Thù,là con trưởng của ông Đoàn Danh Dao
Ông bà sinh được 4 con trai:đầu là Đoàn Danh Duệ,thứ là Đoàn Danh Lễ ,thứ ba là Đoàn Danh Dật (mất sớm) và sau cùnglà Đoàn Danh Nanh
và 4 con gái là Đoàn Thị Diện gả cho Nguyễn bá Chuyên ở Nội diên sinh Nguyễn Chuyết,Đoàn Thị Đỏ (mất sơm),Đoàn Thị Lạc gả cho Nguyễn Bá Ân ở Nội diên sinh Nguyễn Bá Hạ,Đoàn Thị Loát gả cho Lê Để sinh Lê Chức,Lê chức sinh Lê Nghiên.
10-6-ĐOÀN DANH KÍNH
Tiền thừa ấm nhiêu nam kiêm ưu binh võ thành vệ nhất đội ngũ trưởng tự Danh Kính thụy thuần hậu phủ quân
Vợ : Lê thị Thắng
Ông tên húy là Thụ,là con trai thứ tư của ông Đoàn Danh Dao
Ông bà sinh được 4 người con trai:đầu là Đoàn Danh Tại,thứ hai là Đoàn Danh Đạt ,thứ ba là Đoàn Danh Phái (mất sớm),thứ tư là Đoàn Danh Ca và 7 gái:Đoàn Thị Lập gả cho Nguyễn đình Tân,Đoàn Thị Thành, Đoàn Thị Phúc,Đoàn Thị Ngoạn,Đoàn Thị Chín,Đoàn Thị Đỏ,Đoàn Thị Tăng (đều mất sớm)
Ông mất ngày 16-12,thọ 50 tuổi,mộ tại dăm Bàn than
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
10-7-ĐOÀN DANH DINH
Tiền hương trung kỳ lão tự Danh Dinh
Vợ : Chính thất Đinh thị Niên
Á thất Phạm thị Sửu
Trắc thất Trần thị Lương (người ở Nội diên)
Bà Niên sinh một gái là Đoàn Thị Khoát
Bà Sửu sinh hai trai là Đoàn Danh Tây (mất sơm) và Đoàn Danh Huynh (mất sớm)
Bà Lương sinh hai trai là Đoàn Danh Loan và Đoàn Danh Quyển va hai gái là Đoàn Thị Sao và Đoàn Thị Ngạn
Ông mất ngày 26-11,mộ tại xứ Kỳ soi.
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
CHI ẤT
10-8-ĐOÀN DANH THÁT
Tứ phẩm ấn quan quan viên phụ tự Thát thụy thuần cẩn phủ quân
Vợ : Từ phẩm ấn quan quan viên mẫu Phạm thị hàng nhất,tức Phạm thị Lộc,con gái đầu ông Phạm Diên Tính,bách tuế trong xã
Ông tên húy là Khoát,sau vì tên húy của nước nên đổi là Thát,là con thứ của ông Đoàn Danh Liên,tính tình thuần hậu,cẩn trọng,ít nói,không thích khoe khoang.Lúc nhỏ làm thợ rèn,lớn lên tòng quân (thời Lê mạt)
Ông bà sinh được 4 trai: đầu là Đoàn Danh Thể,thứ hai là Đoàn Danh Nguyên,thứ ba là Đoàn Danh Dương ,thứ tư là Đoàn Danh Mân và 5 con gái là Đoàn Thị Tàng (mất sớm,giổ ngày 15-3 mộ tại Dăm cự),Đoàn Thị Khang gả cho Nguyễn Châm sinh Nguyễn ..,Đoàn Thị Cương gả cho người họ Lê,Đoàn Thị Đỏ tứ nương (mất sớm giổ ngày 12-11),Đoàn Thị Đỏ Thập nương (mất sớm,giổ ngày 15-3)
Ông lúc đầu ở nhà của Tổ phụ ,nhà bị cháy nên di cư sang Chợ Trúc,vừa làm ruộng vừa buôn bán,gia tư dần dần có của,đầy đủ.Năm Tân mùi (1811),trở về quê cũ,xây dựng nhà cữa,nhưng được một năm thì mất.Lúc ông chết,3 người con đã lập gia đình,còn các con khác đang còn nhỏ,đều do mẹ nuôi dưỡng mà trưởng thành cả.Bốn người con trai thì chỉ có ông Dương khi cha chết chưa đầy 10 tuổi,nhưng tiếp thụ được sự chăm sóc nuôi dạy sớm tối của mẹ,nên khoa Tân mão (1931) ông thi trúng cử nhân.Xưa nay,con cái học hành thành đạt trong nhà thì nhờ cha,nhờ anh,ngoài thì nhờ thầy,nhờ bạn,nhưng đối với ông Dương có được sự nghiệp chính là nhờ ở người mẹ hiền.
Ông sinh năm Tân tỵ (1761),mất năm Nhâm thân ngày 18 tháng 6 Âm lich (5-8-1812),thọ 52 tuổi,mộ ở xứ Dăm thủy (có bia dá).
Bà sinh năm Bính tuất (1766),mất năm Quý mão ngày 5 tháng 8 (28-9-1843),thọ 78 tuổi,mộ tại xứ Kỳ soi
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
Ông Án sát Đoàn Danh Dương (là con trai thứ ba ) có cúng một mẫu ruộng để hàng năm hai lần con cháu làm lễ phụng niệm tại nhà thờ và có khắc bia kỷ niệm,đại để nội dung như sau:
“Ngã tiên khảo,tên húy là Khoát,vì tên húy của nước nên đổi là Thát,là con thứ của ông Nhiêu nam.Ông là người thuần cẩn,ít nói,không hay khoe khoang.
Có lần ông chú ruột là Thiên hộ công tên là Mai Tài,tòng quân dướ thời Lê triều có công được cấp mấy đạo sắc văn khống chỉ,đưa cho ông và bảo ông điền tên mình vào.Nhưng ông không nhận và nói rằng:”Danh phận tự mình mà có ,phải là sự phấn đấu của bản thân và là vinh dự cho con cháu”.
Hoặc giả,có lần nhà ông Bác bị cháy,cháy lây sang cả nhà ông.Đứa cháu (tằng tôn) ông Bác đến lấy trộm thóc,con ông Bác và hàng xóm bắt tội nó,buộc nó phải bồi.Nhưng ông nói:”Cháy nhà là do bất cẩn mà nhà bác cháy lan sang,nó có lấy là lấy thóc cháy vì nhà nó nghèo”.Nên ông không buộc tội nó.
Khi tòng quân đi đánh phỉ,phá được sào huyệt giặc,người khác thì lấy tiền của,đồ vật,ông chỉ lấy mấy quyển vở đưa về cho con học.
Ba việc trên tỏ ra ông là con người thương người,không tham tiền bạc danh vọng,chăm lo cho con cái học hành nên người.
Tôi đi học được hai năm thì cha qua đời,mẹ tôi là quan viên mẫu Thị Lộc,là con gái của ông họ Phạm Bách tuế trong thôn,tự là Diên Tính,phụng sự Tằng tổ của tôi là ông Kiểm tổng tri hết sức tôn kính,đói với họ hàng con cháu trong họ hết sức hòa ái.Đối với chồng,hơn 30 năm chung sống hòa thuận.Sinh được 4 trai (Thể,Nguyên,Dương,Mân) và 3 gái.Chẳng may chồng qua đời sớm,tằn tiện nuôi dưỡng con cái trưởng thành.Tôi lúc nhỏ,thể chất yếu,nên được cho đi học.Mẹ tôi khuyên bảo tôi cố gắng học hành.Gia tư không lấy gì làm sung túc,nhưng nếp,gà,giò,thịt cung phụng thầy học chưa bao giờ không có,vì tôi mà trọng thầy,để cho tôi vun trồng và hoàn thành chí của cha.Tôi sở dĩ được như ngày nay là do công lao của cha và mẹ.
Đội ơn kế thừa của cha mẹ,tôi được trao ấn quan,vừa được ba,bốn vòng (luân chuyển công việc) bị bệnh đau mắt cáo hưu.Theo ân điển nhà vua,người ra làm quan,bố mẹ được phong tặng,nhưng tôi về sớm,cha mẹ cũng mất rồi.Than ôi!Buồn là không rót được ơn ấy xuống suối vàng.Than ôi!Đã 70 tuổi già,nghĩ đến ơn cù lao nuôi dưỡng của cha mẹ,đau buồn dằn vật tâm trí tôi,không ngủ được,bèn thuật lại công lao,để đời đời con cháu không quên”.
10-9-ĐOÀN DANH ĐỔNG – CHI ẤT
Đoàn nhất lang tự Danh Đổng phủ quân
Vợ : Chính thất : Lê thị Hàm
Ông là con đầu của ông Đoàn Mai Tài
Ông bà sinh được hai trai:đầu là Đoàn Danh Doanh ,thứ là Đoàn Danh Thi (mất sớm) và hai gái là Đoàn Thị Thái,Đoàn Thị Nay (đều mất sớm)
10-10-ĐOÀN DANH TẬP – CHI ẤT
Đoàn nhất lang tự Danh tập phủ quân
Vợ : Lê thị Thỉnh
Ông là con ông Đoàn danh Tề
Ông bà sinh được 3 trai:Đoàn Danh Giai,Đoàn Danh Khiếu,Đoàn Danh Hoanh (đều mất sớm) và một gái là Đoàn Thị Cu.
CHI BÍNH
10-11-ĐOÀN DANH LIÊN
Bản phủ hiệu sinh tự Danh Lâm phủ quân
Vợ : Nguyễn thị Phương
Ông tên húy là Muôn,là con ông Đoàn Danh Nông
Ông bà sinh được 3 trai :Đoàn Danh Cầm,Đoàn Danh Trình,Đoàn Danh Cong
Ông đậu Hiệu sinh khoa Đinh dậu (1837)
Ông mất ngày 18-3,mộ tại Dăm Nghẹo
Chi Bính phái đến ông Đoàn Danh Lâm thì không có người phúng tế)
ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT
- PHÂN CHI GIÁP NHẤT
- PHÂN CHI GIÁP NHỊ
- CHI ẤT
- CHI BÍNH (Không còn người nối tiếp)
PHÂN CHI GIÁP NHẤT
11-1-ĐOÀN DANH TUY
Tiền cai hợp thăng thụ tiền hoa điện tri sự kiêm thập lý hầu ân từ lão mhiêu Đoàn nhất lang tự Danh Tuy thụy chất trực phủ quân.
Vợ : Chính thất Nguyễn thị hàng nhất
Thứ thất Nguyễn thị Nhuệ
Kế thất Đoàn thị Hằng (người Vân chàng)
Ông tên húy là Lịnh,là con trai trưởng của ông Đoàn Danh Tiến
Bà chính thất sinh được một gái là Đoàn Thị Tranh (mất sớm giổ ngày 4-8)
Bà thứ thất sinh được 5 gái :Đoàn Thị Châm (mất sớm),Đoàn Thị Khẳng (mất sớm),Đoàn Thị Nhị nương mất ngày 19-12,Đoàn Thị Tam nương mất ngày 19-12,Đoàn Thị Tứ nương mất ngày 4-6.
Bà kế thất sinh 1 trai là Đoàn Danh Thụy và một gái là Đoàn Thị Lịnh gả cho người họ Trần sinh Trần Tuyến.
Ông mất ngày ……
11-2-ĐOÀN DANH CHÂU
Tiền lý trưởng Đoàn nhất lang tự Danh Châu
Vợ : Bùi thị ….
Ông bà sinh được 2 gái,1 gả cho Phạm Diêu sinh Phạm Sinh,1 gả cho Bùi Kim
Ông là con ông Đoàn Danh Vọng
11-3-ĐOÀN DANH NGHỊ
Tiền lý trưởng Đoàn nhất lang tự Danh Nghị
Vợ : Nguyễn thị ….
Ông là con trưởng ông Đoàn danh Điều
Ông bà sinh được một gái là Đoàn Thị Trùng.
11-4-ĐOÀN DANH ĐÁO
Ông là con thứ của ông Đoàn danh Điều tòng binh chết trận.
11-5-ĐOÀN DANH KỲ
Đoàn Tam lang tự Danh Kỳ
Vợ : Lê thị
Ông là con thứ 3 của ông Đoàn danh Điều
Ông bà sinh được hai trai :Đoàn Danh Trân và Đoàn Danh Chư (đều mất sớm).
11-6-ĐOÀN DANH CANH
Đoàn ngụ lang tự Danh Canh
Vợ : Nguyễn thị Bạn
Ông là con út của ông Đoàn danh Điều
Ông bà sinh được một trai là Đoàn Danh Pháo
Ông mất ngày 8-3
Bà mất ngày 8-8
PHÂN CHI GIÁP NHỊ
11-7-ĐOÀN DANH DUỆ
Hương trung kỳ lão Đoàn nhất lang tự Danh Huệ
Vợ : Bùi thị Trừng
Ông là con trưởng của ông Đoàn danh Kiệm
Ông bà sinh được ba trai :đầu là Đoàn Danh Đảng (mất sớm),thứ hai là Đoàn Danh Đoài,thứ ba là Đoàn Danh Chấn và một gái là Đoàn Thị Quy (mất sớm)
Ông mất ngày 18-8,mộ tại Dăm Đóa
Bà mất ngày 17-8,mộ tại Bàn than (giữa ruộng)
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
11-8-ĐOÀN DANH LỄ
Ưu binh võ thành đội cửu đội cấp bằng đội trưởng kiêm thủ chỉ ân từ lão nhiêu tự Danh Lễ
Vợ : Chính thất Lê thị Thi
Kế thất Trần thị …
Thế hiệu Cố Do
Ông tên húy là Ưng,là con thứ hai của ông Đoàn danh Kiệm
Bà Lê thị Thi sinh được hai con trai là Đoàn Danh Phù và Đoàn Danh Đỏ (mất sớm) và 5 gái là Đoàn Thị Nhuận gả cho Nguyễn trung Thử sinh Nguyễn Thiều,Nguyễn Thiều sinh Thị Giáp gả cho Đoàn Hỷ,Đoàn Thị Tuần gả cho Nguyễn Bằng sinh Nguyễn Nhưng,Nguyễn Nhưng sinh Nguyễn thị Nghiệm gả cho Đoàn Du,Đoàn Thị Niệm gả cho Nguyễn Yêm sinh Nguyễn Cẩn,nguyễn Cẩn sinh Nguyễn Tắc,Đoàn Thị Diệm (mất sớm) và Đoàn Thị Giả gả cho Lý trưởng Đinh Trử sinh Đinh Bùi,Đinh Bùi sinh Đinh Duyên .
Bà kế thất họ Trần người Yên phúc,sinh được một trai là Đoàn Danh Ngạn
Ông mất ngày 20-5 thọ 90 tuổi,mộ tại Dăm bằng
Bà chính thất mất ngày 25-3,mộ tại Kỳ soi.
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
11-9-ĐOÀN DANH NANH
Tiền cán biện nghĩa thương thăng thu tri hương chức Đoàn lệnh công tự Khang Phù thụy chất trực phủ quân
Vợ : Lê thị Chiến hiệu Tù Thục nhụ nhân
Thế hiệu Cố Ngợi
Ông tên húy là Nanh,là con út ông Đoàn danh Kiệm,sinh năm Quý dậu (1813)
Ông bà sinh được 3 trai :đầu là Đoàn danh Nghi,thứ hai là Đoàn danh Tao,thứ ba là Đoàn Danh Năm (mất sớm) và 2 gái là Đoàn Thị Đạo gả cho bá hộ Đinh Tuyết sinh Đinh Hữu,Đinh Muôn,Đinh Chiểu (Đinh Hữu sinh Đinh Thụ,Đinh Muôn sinh Đinh Nhu,Đinh Chiểu sinh Đinh Mật),Đoàn Thị Thiệu gả cho người họ Bùi sinh Bùi thị Phúc gả cho Phạm Cương sinh Pham Thiện.
Ông tạo lập gia sản,điền thổ có hơn trăm mẫu,giàu có vào loại nhất thôn.
Ông mất ngày 27-3,cải tích tại thôn Yên phúc địa phận Dăm đá.
Bà mất ngày 27-8,mộ tại Sau Nha
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
11-10-ĐOÀN DANH TẠI
Hương trung kỳ lão Đoàn lệnh công tự Danh Tại
Vợ : Nguyễn thị Hàng nhị
Ông là con ông Đoàn Danh Kính
Ông bà sinh được 2 trai là Đoàn Danh Kiên và Đoàn Danh Thạch
11-11-ĐOÀN DANH ĐẠT
Hương tring kỳ lão Đoàn lệnh công tự Danh Đạt
Vợ : Lê thị …
Ông là con thứ ông Đoàn Danh Kính
Ông bà sinh được 2 gái :Đoàn Thị Thái gả cho Nguyễn Bu và Đoàn Thị Diệu gả cho Nguyễn Miến (Nguyễn Miến sinh 2 gái,1 gả cho Nguyễn ….,sinh Nguyễn Thằng,1 gả cho Lê Muời Tường)
11-12-ĐOÀN DANH CA
Tiền tri hương chức Đoàn lệnh công tự Danh Ca
Vợ : Lê thị …
Ông là con út của ông Đoàn Danh Kính
Ông bà sinh được 1 trai là Đoàn Danh Hội và 2 gái là Đoàn Thị Ca gả cho người họ Nguyễn và Đoàn Thị Vạn gả cho người họ Bùi.
11-13-ĐOÀN DANH LOAN
Đoàn nhất lang tự Danh Loan
Vợ : Chính thất Nguyễn thị …
Ông là con ông Đoàn Danh Dinh
Ông bà sinh được một trai là Đoàn Danh Hợp (mất sớm)
11-14-ĐOÀN DANH QUYỂN
Đoàn nhị lang tự Danh Quyển
Vợ : Chính thất người Thuận hòa
Ông là con thứ của ông Đoàn Danh Dinh
Ông bà sinh được 1 gái Đoàn Thị Trư gả cho người họ Nguyễn sinh Thị Thi (gả cho Lê Nghiêm)
CHI ẤT
11-15-ĐOÀN DANH THỂ
Tiền hương đình kỳ lão thọ bản giáp thủ chỉ tự Thể thụy cần phác phủ quân
Ông tên húy là Liễn,là con trưởng ông Đoàn Danh Khoát
Vợ : Chính thất Lê thị hàng nhất,hiệu là Từ huệ nhụ nhân (người Gia thịnh)
Á thất Lê thị Vũ người trong xã
Bà chính thất sinh 1 trai là Đoàn Danh Cái vài 1 gái là Đoàn Thị Đỏ (mất sớm)
Bà á thất sinh 3 trai là Đoàn Danh Hữu,Đoàn Danh Nhiều (mất sớm),Đoàn Danh Đỗ (mất sớm) và 1 gái là Đoàn Thị Thiều gả cho Đinh Diên Dân.
Ông mất ngày 6-7,thọ 80 tuổi,mộ tại dăm Bàn than
Bà chính thất mất ngày 12-10,mộ tại Dăm thủy
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
11-16-ĐOÀN DANH NGUYÊN – CHI ẤT
Tiền ưu binh võ thanh vệ nhất đội tự Nghiễm thụy hạnh nghị phủ quân
Vợ : Trần thị Ký
Ông tên húy là Nguyên,là con trai thứ của ông Đoàn Danh Khoát
Ông bà sinh được một trai là Đoàn Danh Diên
Ông tòng quân được 3-4 năm thì mất ngày 15-9,mộ tại Kỳ soi
Bà Trần thị Ký cải giá.
11-17-ĐOÀN DANH DƯƠNG – CHI ẤT
Tân mão khoa cử nhân các thụ trung thuận đại phụ Vĩnh long đẳng xứ địa phương đề hình án sát tư án sát thụy đoan cần hiệu Trúc giang thiện phủ quân.
Vợ : Lê thị hàng nhất hiệu Từ Thuận cung nhân.
Ông tên húy là Biên,lại cũng có tên húy là Dương,tự là Thiện phủ,hiệu là Ức trai.là con thư ba của ông Đoàn Danh Khoát
Ông sinh năm Gia long thứ hai,ngày 27 tháng 8 giờ Thìn (tức 10 giờ ngày 23-9-1803).Lúc còn nhỏ thông minh khác thường,chín tuổi thì cha mất,mẹ nuôi dưỡng cho theo học với ông Tri phủ Bùi Tiên sinh ở thôn Gia thịnh,tên là Bùi Bình (Ông Dương có cúng 3 thửa ruộng 7 sào cho thôn cúng lễ),lại theo học ông Tư nghiệp họ Võ tên là Võ Tần ở xã Võ liệt.Rất chăm chú luyện chữ cho đẹp,luyện văn cho thông,khắc khổ cố gắng,mặc dù bữa rau bữa cháo mỗi ngày cũng viết được và học thêm mười chữ,đêm khêu đèn đọc sách.Có quên làm gì thì quên chứ lo học thì không bao giờ quên.Có tiếng về văn chương,được bạn học gọi là “vô địch”.
Năm 29 tuổi,đậu Cử nhân khoa Tân mão,sau đó vẫn tiếp tục đèn sách,dự thi mấy khóa nữa,chẳng may không đậu,vì hoàn cảnh bà mẹ già,thương tình bà Thái từ,nên đành thôi học và đi làm quan ở Yên thành,Quỳnh lưu,Thanh chương,ở đâu cũng có tiếng tốt đối với dân.Năm Minh mạng thư 21,làm quan ở Hưng nguyên,mùa màng của dân có hoang trùng,ông rất quan tâm trừ sâu cứu lúa.Năm Thiệu trị thứ tư,làm quan ở Nga sơn,nhân dân đều khen ngợi ông với danh hiệu “Song tuấn” bằng câu ca “Đoàn Dương,Nguyễn định xưng song tuấn…”ở đây ông đã vận động quyên góp tu sửa lại Văn miếu huyện.Năm Tự đức thứ tư,làm Tri phủ An nhơn,ở địa phương có hổ ra phá hoại,ông ra lệnh khu trừ diệt hổ,cứu nhân dân khỏi họa thú dữ.Cũng ở đây thường xẩy ra trộm cướp,ông ra lệnh bắt các ổ trộm cướp yết bảng lên tường,đưa đi an trí,nhờ đó toàn cỏi được yên tĩnh.Vì hoàn cảnh vợ mất, ông tạm thời gác quan về nhà,sau sáu năm mới nhận chức lại,dân tình ở đây tin tưởng,yêu mến,xin được lưu ông lại,đó là việc thật là hiếm có.Khi bổ đi Tri phủ Hoài nhơn,sau khi ông đổi đi,nhân dân làm câu đối treo ở công đường nói rằng “Từ thời Lê hồng đức lại nay làm quan ở đây chưa có hai người quân tử như Đoàn đại nhân”.
Ở Hoài nhơn,phủ này chưa có Thánh miếu,ông bèn làm Thánh miếu như ở Nga sơn,được Hoàng giáp Nguyễn hữu Lập làm văn ghi công.Bảy năm ở Hoài nhơn được trên khen mẫn cán hết lòng,dân sự ghi công ơn,nên được thang thụ Thị giảng học sỹ,lãnh Gia định Án sát,Mười một tháng sau lại được bổ làm Quyền Tổng đốc quan phòng,tám năm sau lại đổi về Vĩnh long,rồi lại tái bổ quyền Tổng đốc quan phòng.Trong thời gian này,ông đã từng xuất của riêng vận động nhân dân đi khai khẩn các vùng đất mới,lập đồn điền trồng trọt.
Được 11 năm,thì được triệu về Kinh nhậm chức thực thụ.Nhưng vì đau mắt nên phải về quê điều trị.Bình sinh giữ lòng trung hậu,liêm cán,dùng lời nói câu văn giản lược để thuyết phục,không hay dùng đao búa,roi vọt,dây trói,bất kỳ việc gì cũng mưu lợi cho dân không tiếc sức mình,cũng chính đại công minh không riêng tư.Xử kiện bao giờ cũng biện luận có tình có lý cho rõ sự thật, đối với trọng án cũng không dùng cùm kẹp roi vọt để truy ép.
Hàng ngày làm việc gì,khi giải quyết việc gì,đều có điều tra nghiên cứu xem xét cẩn trọng. Ngoài việc công ra,đêm về xem sách đến khuya mới nghỉ.Nhà riêng của ông còn là nơi lui tới của các nho sinh văn thuộc,cử nhân tú tài (trong đó có ông Trần Tích).
Khi ở Nga sơn,trong việc tu sửa Thánh miếu,có người kiện cáo,khi được phân giải rồi,mọi công việc đều thanh thản.Ở Vĩnh long,lái buôn Trung quốc (Thanh) xin nộp tiền ra vào cữa khẩu, ông chưa nhận chờ ý kiến nhân dân trong thành mới thu 300 lạng bạc thịt,số bạc này đem phân phát cho những người đi khai khẩn đồn điền.Tại gia dịnh,có bà Thị Tính,bị mất trộm trên 30 vạn ông cho người đến ập bắt kẻ gian,lấy lại được toàn bộ giao trả cho bà ta.Khi ông về Triều,bà ấy đã xin đưa 10 lạng vàng tặng ông làm tiền tổn,nhưng ông đã từ chối và nói “Việc vủa ta cũng giống như của Sùng công ngày trước,cái đó chỉ đẩy ta vào chỗ lụy”.Cho nên ông không nghĩ đến việc làm giàu có cho bản thân,mà có gì chỉ giành thiết đãi thân thích bạn bè.
Khi về hưu,thấy văn Miếu ở xứ Phước long,chi phí không đủ,bèn cấp ruộng để chi dùng cho đủ. Lại lo tu sửa Xã miếu,sớm hôm dôn đốc hoàn thành ngôi thứ hai.
Ông mất tháng 5,năm Tự đức thứ 27,hưởng thọ 72 tuổi.
Tiên tỷ húy là Cương,là con nhiêu nam Lê văn Bình ở trong thôn,sinh năm Gia long thứ 15,ngày 29 tháng năm giờ mùi.Sau khi chồng đậu rồi vẫn làm nghề dệt vải và hầu hạ bà Thái từ rất chu đáo.Khi chồng đi làm quan,đi theo chồng.Rất liêm ở chỗ tiền của,rất vui ở chỗ bạn bè quen biết.Nhiều người khen ngợi đức tính của bà.
Bà mất ngày 17 tháng 5 năm Tự đức thứ 5.Thờ chồng được 23 năm.Sinh được 3 con trai là Đoàn Danh Trạc,thứ hai là Đoàn Danh Hân,thứ 3 Đoàn Danh Mỹ và 3 gái là Đoàn Thị Chân gả cho người xã Vân chàng là cử nhân giáo thụ Lê lai Yến sinh ra con trai là Danh Nghi con gái là Thị Thiện,thị …,Thị Bản,thị Đao,Đoàn Thị Năm gả cho người Trung lễ là Thí sinh Lê hữu Hiệu sinh Lê Chiểu và 3 gái:Thị..,Thị Đạo,Thị Trích,con gái út sau cùng là Đoàn Thị sáu (mất sớm)
Mộ ông tại xứ Dăm Dây giữa ruộng,có mộ chí bằng đá.Mộ bà tại xứ Bàn than giữa ruộng,có mộ chí bằng đá.
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu .
11-18-ĐOÀN DANH MÂN – CHI ẤT
Tiền hương đình kỳ lão tri hương chức tự Mân thụy chất trực phủ quân.
Vợ : Chính thất Nguyễn thị Trùng
Kế thất Bùi thị Thoa con ông Bùi đình Tiệp
Ông tên húy là Miên,quốc húy nên đổi là Môn,là con út của ông Đoàn Danh Khoát,tính người chất phác,cương trực.
Bà chính thất sinh 3 gái là Đoàn Thị Diệp,Đoàn Thị Khâm,Đoàn Thị Đỏ và 5 trai là Đoàn Danh Xuyên,Đoàn Danh Phúc,Đoàn Danh Hoằng,Đoàn Danh Quang (đều mất sớm) và Đoàn Danh Đằng
Bà kế thất sinh 1 trai là Đoàn Danh Huy (mất sớm) và một gái là Đoàn Thị Sở gả cho Lê Của ở trong thôn sinh Lê Bật.
11-19-ĐOÀN DANH DOANH – CHI ẤT
Bản giáp thủ chỉ hương trung kỳ thọ tự Danh Doanh
Vợ : Bà chính thất là Đinh Thị …
Ông là con ông Đoàn danh Đổng
Ông bà sinh được hai gái là Đoàn Thị Bôn gả cho Nguyễn Khuê và Đoàn Thị Duột gả cho Đinh …
ĐỜI THỨ MƯỜI HAI
- PHÂN CHI GIÁP NHẤT
- PHÂN CHI GIÁP NHỊ
- CHI ẤT
- CHI BÍNH (Không còn người nối tiếp)
PHÂN CHI GIÁP NHẤT
12-1-ĐOÀN DANH THỤY
Nhiêu nam Đoàn lệnh lang tự Danh Thụy
Vợ : Chính thất Bùi thị Doanh
Kế thất Nguyễn thị Uẩn
Ông là con ông Đoàn Danh Tuy
Bà chính thất sinh 1 gái là Đoàn Thị Niệm (mất sớm)
Bà kế thất sinh 2 trai là Đoàn Danh Thanh và Đoàn Danh Thả (đều mất sớm)
Năm Ất mão,đói kém ông đi làm ăn ở các nơi khác và mất ở Quỳnh lưu ngày 17-10.
Bà chính thất mất …
Bà kế thất mất ngày 7-1.
12-2-ĐOÀN DANH PHÁO
Bản giáp trung đình Đoàn nhất lang tự Danh Pháo
Vợ : Chính thất Phạm thị Sự
Thế hiệu Cố Cừ
Ông là con ông Đoàn Danh Canh,thay trưởng chi là Đoàn Danh Thụy thờ cúng tổ tiên.
Ông bà sinh được hai trai:đầu là Đoàn Danh Cừ ,thứ hai là Đoàn Danh Khôn và 3 gái là Đoàn Thị Ba,Đoàn Thị Ngụ,Đoàn Thị Bảy.Đoàn Thị Ba gả cho Bùi Ích sinh Bùi Hảo,Đoàn Thị Năm gả cho người họ Nguyễn (vô tự),Đoàn Thị Bảy gả cho Phạm Thục.
PHÂN CHI GIÁP NHỊ
12-3-ĐOÀN DANH ĐOÀI
Bản giáp trung đình hương trung kỳ lão tự Danh Đoài thụy cương trực phủ quân
Thế hiệu Cố Thúc
Vợ : Lê thị hàng ngụ
Ông là con thứ ông Đoàn danh Duệ
Ông bà sinh được 4 trai:Đoàn Danh Hựu,Đoàn Danh Đinh,Đoàn Danh Đỏ (đều mất sớm) vàĐoàn Danh Đông và 2 gái là Đoàn Thị Hậu và Đoàn Thị Doãn (mất sớm)
Ông mất ngày 24-6,mộ tai Kỳ soi
Bà mất ngày 5-7,mộ tại Dăm Quản
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
12-4-ĐOÀN DANH CHẤN
Tiền ưu binh nghi võ vệ của đội ngụ trưởng tự Danh Chấn
Vợ : Nguyễn thị …
Thế hiệu Ông Lợi
Ông là con thứ ba của ông Đoàn danh Duệ đi lính làm ngụ trưởng
Ông bà sinh được một trai là Đoàn Danh Lợi (mất sớm)
Ông mất ngày 12-2,mộ tại dăm Đóa Bàn than
12-5-ĐOÀN DANH PHÙ
Bản giáp thủ chỉ hương trung lão thọ tự Danh Phù
Thế hiệu Cố Do
Vợ : chính thất Lê thị …
Á thất Nguyễn thị ….
Trắc thất Trần thị
Ông là con ông Đoàn Danh Lễ
Bà chính thất sinh 1 trai là Đoàn Danh Tại (mất sớm) và 1 gái là Đoàn Thị Tấn gả cho Phạm Lịnh.
Bà Á thất sinh 1 gái gả cho Nguyễn ….
Bà trắc thất sinh sinh 1 trai là Đoàn Danh Do (vô tự)
12-6-ĐOÀN DANH NGAN
Hương trung lão thọ tri hương chức tự Danh Ngan
Thế hiệu Cố Thu
Vợ : chính thất Phạm thị …
Kế thất Lê thị ….
Ông tên húy là Điều,là con thứ ông Đoàn Danh Lễ
Bà chính thất sinh được 1 trai là Đoàn Danh Thô
Bà kế thất sinh được hai trai là Đoàn Danh Đắc và Đoàn Danh Hanh (đều mất sớm) và một gái là Đoàn Thị Thiu gả cho Nguyễn đôi Thưởng sinh ra Cu Mười.
Mộ ông tại dăm Đóa Bàn than
Mộ bà chính thất tại ruông Kỳ soi
Mộ bà kế thất tại dăm Cống.
12-7-ĐOÀN DANH NGHI
Tiền ưu binh nghi võ vệ cửu đội thư lại húy Nghi tự Kỳ gia Đoàn quý công
Thế hiệu Cố Thư
Vơ : chính thất Lê thị Trinh Phác
Ông là con trưởng ông Đoàn danh Nanh
Ông bà sinh được 8 con trai là Đoàn Danh Thọ (mất sớm),Đoàn Danh Dĩnh (mất sớm),Đoàn Danh Tuyên ,Đoàn Danh Định ,Đoàn Danh Tư,Đoàn Danh Năm,Đoàn Danh Sáu,Đoàn Danh Bảy (đều mất sớm) và 3 gái là Đoàn Thị Tịnh gả cho Lê Vệ sinh Lê Cừ,Đoàn Thị Đích gả cho Nguyễn … sinh Nguyễn Hiệp,Đoàn Thị Tám (mất sớm)
Thừa hưởng gia sản của cha mẹ để lại,giàu có hơn 100 mẫu ruộng
Ông mất ngày 20-7,mộ tại dăm Cồn biền
Bà mất ngày 18-5,mộ tại dăm Kỳ soi.
12-8-ĐOÀN DANH TAO
Tiền bản từ thư lại Đoàn quý công tự Danh Tao
Ông là con thứ của ông Đoàn danh Nanh
Ông mất ngày 14-10
Vợ cải giá
12-9-ĐOÀN DANH KIÊN
Bản giáp trung đình tự Danh Kiên hiệu Khắc Tuấn lệnh công
Vợ : Nguyễn thị ….
Ông là con đầu ông Đoàn Danh Tại
Thế hiệu Ông Thiệu
Ông bà sinh được 4 trai là Đoàn Danh Thiệu,Đoàn Danh Hiệu,Đoàn Danh Tứ,Đoàn Danh Sáu (đều mất sớm)
12-10-ĐOÀN DANH THẠCH
Đoàn nhị lang lệnh công tự Danh Thạch
Vợ : Lê thị …
Thế hiệu Ông Chiểu
Ông là con thứ của ông Đoàn Danh Tại
Ông bà sinh được 1 trai là Đoàn Danh Hạnh và 2 gái là Đoàn Thị Chiểu, Đoàn Thị Ba.
12-11-ĐOÀN DANH HỘI
Tiền dã tượng cục tự Danh Hội
Vợ : họ Nguyễn người Trung lương
Thế hiệu ông Hội
Ông là con của ông Đoàn Danh Ca
Ông bà sinh được 1 trai là Đoàn Danh Du và 2 gái là Đoàn Thị Cháu gả người Trung lương,Đoàn Thị Ba gả người Thái yên (Nguyễn Chước)
CHI ẤT
12-12-ĐOÀN DANH CÁI
Hương trung lão thọ hộ giáp thủ chỉ húy Cái tự Chấn thụy chất hậu phủ quân
Thế hiệu Cố Việng
Vợ : Lê thị Thanh
Ông là con ông Đoàn Danh Thể
Ông bà sinh được 4 trai:Đoàn Danh ..,Đoàn Danh Sắt,Đoàn Danh Hóa,Đoàn Danh Thái (đều mất sớm) và 5 gái :Đoàn Thị Cầu gả cho người Yên trường (vô tự),Đoàn Thị Hảo gả cho Hồ Tích người Thái lão sinh Danh Cụ,Đoàn Thị Tửu (mất sớm),Đoàn Thị Thiu gả cho cử nhân Lê lai Yến người Vân chàng làm vợ lẻ,sinh Đính và Mật và Đoàn Thị Lữ gả cho người Thanh chương.
Ông mất ngày 19-12,mộ tại dăm Thủy
Bà mất ngày 22-7,mộ tại Mô trác
12-13-ĐOÀN DANH DIÊN – CHI ẤT
Đoàn lệnh công tự Danh Diên
Vợ : Phạm thị Đệ,người Nội diên
Ông tự là Nghiễm,là con ông Đoàn Danh Nguyên
Ông bà sinh được 1 trai là Đoàn Danh Kỳ và 2 gái là Đoàn Thị Duyên,Đoàn Thị Lỗi
Năm Ất sửu (1865) đói kém,cả nhà đi nơi khác làm ăn ở Quỳ châu,không rõ mất ở đâu>Riêng Danh Kỳ và Thị Duyên thì bị hổ bắt.
12-14-ĐOÀN DANH TRẠC – CHI ẤT
Tỉnh học ấm sinh tự Bạt phủ thụy cương thận phủ quân
Thế hiệu Ông Xứ Ấm
Vợ : Bà Lê thị Lan,hiệu Đoan cần nhụ nhân,con gái thứ 3 ông Lê Vy.
Ông là con trưởng của ông Án sát Đoàn Danh Dương ,tên húy là Trạc,sinh năm Ất mùi (1835),tính ông cương trực,thận trọng,cẩn mật.Lớn lên theo học trường tỉnh,sau vì bà già yếu nên phải xin về.Ông mất năm Tân tỵ ngày 10 tháng 10 (10-12-1881).
Bà người Trung lễ,con gái thứ ba của ông Án sát Lê Vy,là người phụ nữ đoan chính,cần mẫn suốt 20 năm chồng đau ốm,nhà thiếu quẩn,nhưng bà chăm sóc hầu hạ tận tình tận nghĩa không hề kêu ca phàn nàn.Bà sinh năm Giáp ngọ (1834),mất năm Canh dần ngày 18 thang2 (6-3-1890).
Ông bà sinh được 5 người con trai :Đầu là Đoàn Danh Trung sau đổi tên là Danh Túc,thứ hai là Đoàn Danh Thử (mất sớm),thứ ba là Đoàn Danh Từ (mất sớm),thứ tư là Đoàn Danh Chính sau đổi tên là Danh Đề,thứ năm là Đoàn Danh Huề,và 4 người con gái là Đoàn thị Trực gả cho con ông Bố chánh họ Bùi ở Trung lễ Bùi Phác (đề đốc) sinh Bùi Lượng,Đoàn Thị … gả cho người họ Nguyễn ở Vĩnh đại sinh Thị Nguyệt,sau cải giá lấy người Thạch hà sinh Danh Tuyển,Thị Thanh,Đoàn Thị Tín gả cho người Vân chàng là Đoàn Lượng sinh Đoàn Thảo,Đoàn Thị Tiểu (mất sớm).
Mộ ông táng tại thôn Thượng ích,mộ bà tại Gia thịnh (nghĩa địa đất công,đều có mộ chí)
Phụ lục ngoại phủ về bà Lê thị Lan là con ông Lê Vy,làm án sát ở Quảng trị,người Trung lễ,tên húy là Văn.Ông Lê Vy có 4 người con trai và 5 người con gái.Con cháu ông đều đõ đạt cao,như con trưởng là Lê văn Thục đậu Giải nguyên,con thứ là Lê văn Duyệt đậu cử nhân,cháu,con ông Lê văn Thục cùng là cử nhân,con ông Lê văn Duyệt là Giải nguyên.Tiến sỹ Lê văn Kỷ là cháu tằng tôn.Các con rể ông Lê Vy cũng đều là cử nhân,tú tài cả.
12-15-ĐOÀN DANH HÂN – CHI ẤT
Quan viên tử Đoàn nhị lang tự Danh Hân thụy tài mẫn phủ quân
Thế hiệu Ông Nho
Ông là con thứ hai của ông Án sát Đoàn Danh Dương lúc còn nhỏ đã tỏ ra tài mẫn,nhưng lớn lên thì qua đời sớm.
Ông mất ngày 27-1,mộ tại Dăm thủy.
Bà mất ngày 8-10,mộ tai Bàn than.
12-16-ĐOÀN DANH MỸ – CHI ẤT
Quan viên tử lệnh phủ tự Mỹ thụy cương phủ quân
Thế hiệu ông Viên
Vợ : Thái thị Chính
Ông là con thứ ba của ông Án sát Đoàn Danh Dương
Ông bà sinh được 1 trai là Đoàn Danh Đỏ (mất sớm) và 3 gái là Đoàn Thị Hỷ gả chồng Bùi Huân sinh Bùi Hoặc,Đoàn Thị Côn gả chồng là Bùi Hồ sinh Bùi Tường và Bùi Năm Tường và Đoàn Thị Tuêu (mất sớm)
Ông mất ngày 13-4,mộ tai dăm Thủy
Bà mất ngày 8-10,mộ tại Bàn than
12-17-ĐOÀN DANH ĐẰNG – CHI ẤT
Bản giáp thủ chỉ hương rung kỳ thọ Đoàn lệnh công tự Danh Đằng
Thế hiệu Cố Nuôi
Ông là con ông Đoàn Danh Mân
Vợ : Nguyễn thị Giáo,người Yên phúc
Ông bà sinh được 2 trai là Đoàn Danh Quý (mất sớm) và Đoàn Danh Phương
Ông mất ngày 23-9,mộ tại Dăm Trạng
Bà mất ngày 17-7,mộ tại Dăm Khúc.
ĐỜI THỨ MƯỜI BA
- PHÂN CHI GIÁP NHẤT
- PHÂN CHI GIÁP NHỊ
- CHI ẤT
- CHI BÍNH (Không còn người nối tiếp)
PHÂN CHI GIÁP NHẤT
13-1-ĐOÀN DANH CỪ
Bản giáp trung đình kiêm giám thủ từ đường Đoàn lệnh công tự Danh Cừ
Vợ : Bùi thị Đôi
Ông là con đầu ông Đoàn Danh Pháo
Thế hiệu Ông Cư
Ông bà sinh được 3 trai:đầu là Đoàn Danh Cư ,thứ hai là Đoàn Danh Đôi ,thứ ba là Đoàn Danh Ba và một gái là Đoàn Thị Bốn gả cho Cửu phẩm Nguyễn Thoại
Ông mất ngày,mộ tại ..
Bà mất ngày,mộ tại ..
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
13-2-ĐOÀN DANH KHÔN
Đoàn lệnh công tự Danh Khôn
Thế hiệu Ông Cu Tám
Vợ : Đinh thị ..
Ông là con trai thứ hai của ông Đoàn Danh Pháo
Ông bà sinh được 5 người con trai : đầu là Đoàn Danh Ngoan,thứ hai là Đoàn Danh Tài,thứ ba là Đoàn Danh Tình,thứ tư là Đoàn Danh Sắc,thứ năm là Đoàn Danh Sảo (mất sớm)
Ông mất ngày ….,mộ tại
Bà mất ngày ,mộ tại
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
PHÂN CHI GIÁP NHỊ
13-3-ĐOÀN DANH ĐÔNG
Tiền xã trưởng kiêm bản giáp tam bài Đoàn lệnh công tự Danh Đông hiệu Phong
Thế hiệu Ông Thuc
Vợ : Chính thất Lê thị …
Kế thất Nguyễ thị ..
Ông là con thứ tư của ông Đoàn Danh Đoài
Bà chính thất sinh được 1 trai là Đoàn Danh Thúc
Bà kế thất sinh 1 trai là Đoàn Danh Thích,và 2 gái là Đoàn Thị Bốn và Đoàn Thị Tiêu.
Ông mất ngày 10-12,mộ tại
Bà chính thất mất ngày18-7,mộ tại Kỳ soi
Bà kế thất mất ngày
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
13-4-ĐOÀN DANH DO
Tiền hộ hạng Đoàn lệnh công tự Danh Do
Ông là con ông Đoàn Danh Phù
Thế hiệu Bác Nội
Ông bà sinh được một gái là Đoàn Thị nội,sau đó bà cải giá
Ông mất ngày…,mộ tại Bàn than
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
13-5-ĐOÀN DANH THÔ
Tiền hộ hạng Đoàn lệnh công tự Danh Thô
Ông là con ông Đoàn Danh Ngan
Thế hiệu Bác Dũng
Ông bà sinh được 1 gái là Đoàn Thị Dũng,sau đó bà cải giá
Ông mất ngày ,mộ tại
13-6-ĐOÀN DANH TUYÊN
Tiền ưu binh long vũ đình nghị võ đội cấp bằng đội trưởng xã thôn hương sắc thôn dân trương hộ niên đăng lão thọ Đoàn quý công tự Tuyên húy Thăng thụy cương trực phủ quân
Thế hiệu Ông Trương
Ông là con thứ hai ông Thư lại Đoàn Danh Nghi
Bà là con ông Thư lại Nguyễn Vệ
Ông bà sinh được 6 người con trai : đầu là Đoàn Danh Khải,thứ hai là Đoàn Danh Hỷ,thứ ba là Đoàn Danh Chiết ,thứ tư là Đoàn Danh Đường,thứ năm là Đoàn Danh Thiện,thứ sáu là Đoàn Danh Ngôn và hai người con gái là Đoàn Thị Sáu gả cho Nguyễn .. sinh Nguyễn Vinh,Đoàn Thị Chính gả cho Nguyễn Bích con ông phó vệ Nguyễn Hồ
Ông mất ngày 16-9,mộ tại Kỳ soi
Bà mất ngày ,mộ tại
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
13-7-ĐOÀN DANH ĐỊNH
Đoàn lệnh công tự Danh Định
Thế hiệu Ông Chắt An
Ông là con trai thứ tư của ông Đoàn Danh Nghi
Bà Nguyễn thị ..
Ông bà sinh được 4 trai :đầu là Đoàn Danh An,thứ hai là Đoàn Danh Khoan,thứ ba là Đoàn Danh Phú,thứ tư là Đoàn Danh Dung (mất sớm)
13-8-ĐOÀN DANH THIỆU
Tiền hộ hạng Đoàn lệnh công tự Danh Thiệu
Ông là con ông Đoàn Danh Kiên
Không có con
13-9-ĐOÀN DANH HIỆU
Tiền hộ công Đoàn lệnh công tự Đôi Hiệu
Ông là con thứ của ông Đoàn Danh Kiên không có con,vợ cải giá
13-10-ĐOÀN DANH HẠNH
Tiền hộ hạng Đoàn lệnh Công tự Danh Hạnh
Thế hiệu ông Năm
Ông là con ông Đoàn Danh Thạch
Bà người Yên phúc
Ông bà sinh được hai trai là Đoàn Danh Trí và Đoàn Danh Tri
13-11-ĐOÀN DANH DU
Tiền hộ hạng Đoàn lệnh công tự Danh Du
Thế hiệu Ông Cu Lương
Vợ : Nguyễn thị Nghiệm người ở trong thôn,cháu ông Nguyễn Bằng là con rể ông Đoàn Danh Lễ (đời thứ 11)
Ông là con ông Đoàn danh Hội
Ông bà sinh được 4 trai là Đoàn Danh Lương ,Đoàn Danh Lục,Đoàn Danh Bảy ,Đoàn Danh Liệu mất sớm
CHI ẤT
13-12-ĐOÀN DANH TÚC
Tiền hương thí dung trúng tam trường niên đăng lão thọ Đoàn mạnh lang tự Danh Hiên tiên sinh thụy thuần hậu cương nghị phủ quân
Bà là Đinh thị Huệ,người Đông khê,con gái ông Bá hộ Đinh văn Ất.
Ông tên húy là Trung sau đổi là Chiêu rồi đổi là Túc,là con trưởng của ông Đoàn Danh Trạc.Tính tình thuần hậu cương nghị,thông minh sớm nổi tiếng là thông học,nhưng chín khoa thi hương chỉ trúng tam trường,không có danh phận gì.Năm Ất dậu,vua Hàm nghi xuất bôn phụng mệnh cần vương,ông tham gia hưởng ứng phong trào.Sau đó trở về dạy học,học trò ông nhiều người thành đạt như Cử nhân Lê văn Luyện ở Lạc thiện (Hồng lô tự khanh),cử nhân Hoàng Xuân Viên ở Nhân thọ (án sát) v.v…
Ông bà sinh được 5 người con trai:con trai đầu là Đoàn Quỵ,thứ hai là Đoàn Danh Trì ,thứ ba là Đoàn Danh Phù,thứ tư là Đoàn Củng,thứ năm là Đoàn Danh Bát và 4 người con gái:Đoàn Thị Nguyệt ,Đoàn Thị Năm,Đoàn Thị Bảy trước gả về xã Văn lâm là Thái Chương sinh được hai gái là…sau chồng mất cải giá lấy người Trung lương,huyện Can lộc tên là Nguyễn Thông (Hàn lâm) sinh Nguyễn Vệ,con gái út là Đoàn thị Chín.
Ông sinh năm Kỹ mùi (1859),mất năm Canh ngọ ngày 2-6 nhuần,tức ngày 27-7 năm 1930 thọ 72 tuổi,mộ tại ..
Bà sinh năm 1862,mất năm Kỹ mão (1939) ngày 5-11 Âm lịch,thọ 78 tuổi,mộ tại ..
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
13-13-ĐOÀN DANH ĐỀ – CHI ẤT
Quan viên phụ lịch khoa thí trúng xã thôn viên chức niên đăng lão thọ Đoàn lệnh công tự Thượng Đạt thụy hòa dịch phủ quân
Thế hiệu Cụ Quát
Vợ : Lê thị Hảo,con ông Chánh tổng ở trong thôn là Lê Giáo
Ông tên húy là Chính,sau đổi là Đề Ấm sinh,là con thứ của ông Đoàn Danh Trạc,tính tình trầm lặng,hòa nhã,việc gì chưa biết không nói,không hiếu thắng,không hề giận giữ ai.Lúc nhỏ đi học ở Vân chàng với ông Tú tài họ Nguyễn,thi trúng lịch khoa,sau cùng với anh ruột là Hiên tiên sinh (Đoàn Danh Túc) tham gia việc cải lương hương chính.
Ông bà sinh được 5 người con trai:đầu là Đoàn Quát(cửu phẩm),thứ là Đoàn Thức(tri huyện),Thứ ba là Đoàn Kiện,thứ tư là Đoàn Diện,út là Đoàn Danh Bằng và 1 gái là Đoàn Thị Diệu.
Ông sinh năm 1868,mất ngày 25-1 năm Nhâm dần (1932),thọ 65 tuổi,mộ tại xứ dăm Nhà vẹt
Bà mất ngày …,mộ tai.
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
13-14-ĐOÀN DANH HUỀ – CHI ẤT
Tiền thí sinh kiêm bản giáp trung đình Đoàn tứ lang tự Danh Huề phủ quân
Thế hiệu là ông Hiên
Ông là con út ông Ấm sinh Đoàn Danh Trạc,lúc còn nhỏ nhamh nhẹn,minh mẫn,bất hạnh đến tuổi trung niên thì mất
Lấy vợ người họ Lê ở thôn Nội nhân trong tổng,sinh được hai gái:đầu là Đoàn Thị Hiên (mất sớm),thứ hai là Đoàn Thị Đôi gả cho ông Nguyễn Giác sinh Nguyễn Hào.
Sau khi ông mất bà cải giá.
Ông mất ngày 25-9,mộ tại Dăm thủy
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu
13-15-ĐOÀN DANH PHƯƠNG – CHI ẤT
Tiền hộ hạng Đoàn lệnh công tự Danh Phương
Thế hiệu Ông Trị
Ông là con ông Thủ chỉ Đoàn Danh Đằng
Bà người họ Lê,tên Lê thị Đôi
Ông bà sinh được 4 trai là Đoàn Danh Trị,,Đoàn Danh Niêm,Đoàn Danh Lục,Đoàn Danh bảy, một gái thứ hai là Đoàn thị Em (Bà Nuôi Hưởng),và một gái là Đoàn thị Tư (mất lúc 18 tuổi)
Ông mất ngày … ,mộ tại …
Bà mất ngày …,mộ tại
Nay đã cải táng về nghĩa trang Nhà liêu